Ngườilữhành
Triết học kinh viện cho rằng con người là một hữu thể có
ngôi vị. Quan niệm này nói lên tính siêu việt của con người trong tương quan
với thế giới. Nét đẹp hiện sinh của mỗi người mà theo đó, tôi là một cá thể tự
thể hiện mình. Thế nhưng, tôi đã thể hiện mình như thế nào trong cuộc đời này?
Tất cả những suy nghĩ và hành động của tôi có được diễn ra do sự xác tín của
tôi? Hay đó là hệ quả của những tác động nào khác? Những dòng chia sẻ sau đây
phần nào trả lời cho câu hỏi vừa gợi lên.
Thánh Phao-lô trong thư Rm 14,23 có
nói: “Bất cứ điều gì không do xác tín đều là tội”. Suy ngẫm điều này cho tôi
thấy tầm quan trọng của một lối nghĩ và một lối sống có xác tín. Sự xác tín cho thấy tôi là ai? Tôi đang làm gì? Đi đâu?
Cái gì làm nên giá trị đời tôi và điều gì tôi đang theo đuổi?
Sinh ra và lớn lên trong một nền văn
hóa mang nặng tính tập thể đề cao sự sĩ diện, tôi cũng chưa thể thoát ra khỏi
cái triết lý sống “khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ người biết mới sống”. Từ
đó, tôi cũng loay hoay tìm cách đối phó để tìm cho ra cái lẽ biết ấy để mong thích nghi và tồn tại. Khi tìm cách để thích
nghi, tôi đã thiếu xác tín, đã thỏa hiệp và đi đến nhượng bộ, chấp nhận hoàn
cảnh theo kiểu “cuốn theo chiều gió”. Tôi đã trở thành một diễn viên trên sân
khấu kịch cuộc đời để rồi sau “ánh đèn sân khấu”, tôi nhận ra con người thật
của tôi với tất cả sự ê chề của nó.
Tương quan ngôi vị của tôi với vũ
trụ và tha nhân đã bị đánh mất nền tảng của yêu thương. Tôi đến với mọi người,
lắng nghe và đón nhận họ không hoàn toàn tuân theo sự tự do nội tâm mà hàm ẩn
ít nhiều toan tính. Tôi xây dựng tương quan theo chiều hướng có lợi cho bản
thân. Tôi dùng chút quyền lực hay danh vị của mình để áp đặt người khác, thậm
chí dẫn đến con đường tội lỗi. Thiếu sự xác tín mang tính cá vị, tôi đã dễ dàng
đi đến chỗ “đoàn lũ hóa” và đổ thừa cho hoàn cảnh.
Là một tu sĩ truyền giáo, khi suy
ngẫm về sự xác tín đã thúc bách tôi nghiêm túc và cấp thiết nhìn lại con người
và lý tưởng mình đang dấn bước. Bởi sống lý tưởng của người môn đệ Đức Ki-tô
đòi hỏi tôi phải sống sự xác tín của mình trong mọi nơi mọi lúc. Xác tín niềm
tin vào tình yêu Thiên Chúa cũng mời gọi tôi xây dựng một tương quan với tha
nhân trong tinh thần đối thoại trong yêu thương – sự đối thoại trên cơ sở bình
đẳng, lắng nghe và tôn trọng để chấp nhận nhau trong sự phong phú khác biệt.
Bầu khí của Năm Đức tin cũng mời gọi
tôi tái khám phá hành trình đức tin của mình không chỉ trên bình diện lý thuyết
với những trang sách vở giáo lý, kinh bổn mà sâu xa hơn là một kinh nghiệm đức
tin trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Để rồi đời sống của tôi, một
tu sĩ truyền giáo làm sao phải tạo nên cho người khác những câu hỏi hoặc trở
thành dấu chứng “để người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy đó là anh em yêu
thương nhau”. Chỉ khi sống trong yêu thương, tôi mới có thể nói sự thật về
nhau, cho nhau và về Thiên Chúa.
Cuối cùng, Thiên Chúa sẽ phán xét mỗi người theo lương tâm
của họ trong từng hoàn cảnh. Dĩ nhiên, tôi cũng không là ngoại lệ. Do đó, được
mời gọi để sống yêu thương và trở nên chứng nhân về tình yêu và lòng nhân lành
của Thiên Chúa, hơn bao giờ hết, lúc này, tôi cần xác tín niềm tin và tất cả
lối sống của mình dưới ánh sáng của Lời Chúa, của huấn quyền Giáo hội và nơi
sâu thẳm của lương tâm. Để khi sống với sự xác tín, tôi can đảm tuyên xưng: tôi tin, một niềm tin cá vị giúp tôi
khám phá sự thật về chính mình để không ngừng hoàn thiện nó trong sứ vụ là
muối, là men.
◊
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét