Hiển thị các bài đăng có nhãn Chia sẻ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chia sẻ. Hiển thị tất cả bài đăng

8 thg 4, 2015

LỜI TỪ BAN LÃNH ĐẠO

08/04/2015
Arnoldus Nota, tháng 4 năm 2015
Cha Heinz Kuluke và Ban Lãnh Đạo

(Duy Thiện chuyển ngữ)

“Từ Chấp Nhận Và Thấu Hiểu Sự Khác Biệt Trong Môi Trường Liên Văn Hóa Đến Việc Làm Phong Phú Và Đa Dạng Lẫn Nhau”
Phần Mở đầu của Hiến Pháp Dòng Ngôi Lời mở ra cho chúng ta viễn cảnh sau: “Trong tư thế là một cộng đoàn bao gồm những anh em khác nhau về ngôn ngữ và dân tộc, chúng ta trở nên một dấu chỉ sống động cho sự hiệp nhất và tính đa dạng lớn lao của Giáo hội”. Chúng ta biết rằng viễn tượng này vừa là sự gợi hứng vừa là thách đố cho công việc và thực tế của đời sống cộng đoàn chúng ta. Tổng Tu Nghị (TTN) lần thứ 17 năm 2012 của Hội dòng chúng ta đã tập trung vào chủ đề: “Từ mọi Quốc gia, Dân tộc và Ngôn ngữ: Cùng chia sẻ Đời sống và Sứ vụ Liên văn hóa”. Tu Nghị đã khẳng định: “Tính liên văn hóa là một hình ảnh đặt trưng và là một đặc nét trong căn tính của chúng ta” (Tài liệu TTN, số 26). Liên văn hóa ở đây không chỉ là chấp nhận nhau và dừng lại ở việc sống chung với nhau nhưng còn là “nhấn mạnh và làm nổi bật hơn tiến trình giao thoa văn hóa ở cả mức độ cá nhân lẫn xã hội” (Kisala, Verbum 2009, 335).

18 thg 1, 2015

Lễ An Táng 17/01/2015


Thánh lễ An táng bà cố Anna Nguyễn Thị Ý
Là thân mẫu thầy Phó tế Giuse Trần Quang Chinh, Dòng Ngôi Lời
Lúc 9h00 ngày 17 tháng 01 năm 2015
 Tại Giáo xứ Gia Lào, Long Khánh, Đồng Nai
Xin hiệp lời cầu nguyện cho linh hồn Anna và toàn gia quyến.



15/01 Mừng Lễ Thánh Arnold, Đấng sáng lập Dòng SVD, SSPS, SSPSAP

15/01
Mừng lễ thánh Arnold Janssen Đấng sáng lập Dòng Ngôi Lời, Dòng Nữ Tỳ Chúa Thánh Linh Truyền Giáo và  Dòng Nữ Tỳ Chúa Thánh Linh Chiêm Niệm.

4 thg 11, 2014

Sống quảng đại

Chia sẻ Tin Mừng Lc 14,15-24

Gioachim Sơn Thạch, SVD

Ai đó đã từng phát biểu rằng: "Hãy thương yêu kẻ khác và họ sẽ thương yêu bạn, hãy giúp đỡ họ và họ sẽ giúp đỡ bạn". Cũng như ca dao tục ngữ Việt Nam có câu “có qua có lại mới toại lòng nhau” hay là “bánh ít cho đi, bánh quy cho lại”. Quy luật này vẫn thường được nhiều người sử dụng trong cuộc sống. Chẳng hạn “Tôi cho anh để được anh cho lại, tôi làm ơn cho anh là để được anh trả ơn, tôi đãi anh lần này là để được anh mời lại lần sau...”

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su đã dạy chúng ta một bài học vượt trên bài học đối nhân xử thế thông thường. Cụ thể, khi Đức Giê-su dự một bữa tiệc, ngài nhắc nhở người mời ngài như sau“Khi ông đãi tiệc, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con, hoặc láng giềng giàu có… Nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật què quặt, đui mù, họ không có gì trả lễ, và như thế ông mới thật có phúc”.
Sưu tầm Internet

22 thg 10, 2014

Lạy Cha, xin làm cho Danh Thánh Cha vinh hiển

Suy niệm Tin Mừng Lc 11,1-4
Binh sắc, SVD

Kinh lạy Cha là lời kinh quen thuộc nhất của chúng ta. Đối với tôi, lạy cha là kinh đầu tiên được mẹ mớm cho khi bập bẹ. Kinh này quen thuộc đến độ có khi nhàm chán và tôi đã đọc một cách máy móc. Ấy thế nhưng, đây lại là lời kinh tuyệt hảo nhất, quan trọng nhất, ý nghĩa nhất và là chuẩn mực cho mọi lời cầu nguyện. Trong phạm vi bài chia sẻ này, tôi xin được đề cập hai ý: thứ nhất là “lạy Cha” và thứ hai là “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”.

“Lay Cha” là câu nói đầu môi của những người tin vào Chúa Ki-tô, Đấng đã mặc khải cho ta mối tình sâu đậm giữa ta và Thiên Chúa. Thử hỏi trong Cựu Ước mấy ai dám gọi Thiên Chúa là Cha?  “Lạy Cha” xuất phát lần đầu từ miệng Chúa Giê su. Lời đó đã được đánh đổi bằng cái chết đau thương trên thập giá. Ngài bị lên án vì Ngài tự xưng mình là con Thiên Chúa. Đức Ki tô gọi Thiên Chúa là Cha mình. Chẳng những thế Ngài còn dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là cha. Bởi vì theo nghĩa tuyệt đối chỉ một mình Thiên Chúa đáng cho ta gọi là Cha với trọn vẹn ý nghĩa: “các ngươi đừng gọi ai dưới đất là cha vì các ngươi chỉ có một cha Người ngự  trên trời”, (Mt 23,9)

Khi một em bé kêu lên hai tiếng” cha ơi”! tiếng cha ơi đó mang nhiều ý nghĩa. Trước hết nó diễn tả một sự lệ thuộc hoàn toàn ở cha. Thứ đến, tiếng cha ơi vọng lên trong những lúc tối trời như những tiếng la cầu cứu, và theo cảm quan tự nhiên, nó nhỏ dại, càng được yêu thương che chở. Sức mạnh của nó là sự yếu đuối. Điều này xem ra mâu thuẫn, nhưng kì thực là thế. Bởi nó nhỏ dại nên cha mẹ anh em dành cho nó sự ưu tiên trong gia đình. Muốn biết cha trên trời xử với ta như thế nào chỉ cần nhìn cách đối xử của cha mẹ trong các gia đình đối với con nhỏ. Chúa Ki-tô há chẳng phải khuyên ta trở nên như trẻ nhỏ đó sao? Như vậy, mỗi khi hạnh phúc hay bất hạnh ta đều có thể cất lên hai tiếng Cha ơi với niềm hy vọng tràn trề.

Từ ý nghĩa thâm sâu của hai tiếng cha ơi, đưa ta đến với lời nguyện: “xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển”.

Một vận động viên sau khi chinh phục đỉnh Olympia, tự nhiên sẽ được mọi người biết đến. Danh cậu ta đồn thổi khắp nơi. Cậu ta nổi tiếng. Một Bác sĩ cặm cụi trong phòng thí nghiệm, nào ai biết đến ông?  Đột nhiên ông tìm ra thuốc chữa ung thư thì thiên hạ tôn ông lên bậc thần thánh của y dược. Hai ví dụ này đủ để minh họa cho việc xin làm cho danh thánh cha vinh hiển.

Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển có nghĩa  là xin cho mọi người tôn vinh Cha, đặt cha lên trên hết, vượt mọi thế nhân. Tại sao xin cho Chúa được vinh hiển? phải chăng chúa thiếu hiển vinh? Không. Tự bản thể Ngài, Ngài là Đấng sáng tạo van vật, không thể thiếu vinh quang, uy quyền và hạnh phúc. Vậy thì, Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển có nghĩa là xin cho mắt con được sáng để nhìn thấy những việc Chúa làm và con nguyện đem tài hèn sức mọn ra để khám phá những việc lạ lung đó để phơi bày cho mọi người biết và cùng ca ngợi Chúa với con. Vinh danh Thiên Chúa là cứu cánh công trình sáng tạo. Thiên Chúa sáng tạo muôn loài không nhằm mục đích nào khác nhằm tỏ vinh quang Ngài và mưu ích cho vạn vật. Vinh quang này không do ai đưa tới  nhưng tự bản thể Ngài phát ra, cũng như lửa đang cháy tự chiếu sáng. Thiên Chúa như một họa sĩ tỏ vinh quang mình qua tác phẩm. Vũ trụ là một kỳ công tuyệt diệu làm say mê những ai để tâm quan sát. Đúng như lời vịnh gia đã khái quát như sau: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm” (Tv19,2)

Thời gian tập kỳ tôi được đi linh thao mười ngày trên đồi hiển linh Bảo Lộc. Ngày đâu tiên tôi được cha giảng phòng cho suy niệm về công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Trong cái thanh tĩnh yên ả của núi rừng Tây nguyên, trong cái tỉnh lặng đến khôn cùng nơi đan viện Biển Đức,bằng sự tập trung quan sát tỉ mỉ lần đầu tiên tôi khám phá được vẽ đep kì diệu của vạn hữu quanh mình mà bình thường tôi chẳng để ý. Tôi thấy mình nhỏ bé trước cảnh núi non hung vỹ, thấy ngỡ ngàng trước một cây trinh nữ e thẹn khép mình khi tôi chạm nhẹ, tôi mê mẫn bởi những bông hoa dại đang độ mãn khai, tôi xót xa vì một đóa dâm bụt gục ngã sau lần đăng quang của mình… từng bông hoa bừng nở, giọt sương la đà trên ngon cỏ hay là một chiếc lá rơi …tất cả đều phản ánh vinh quang Thiên chúa một cách vi diệu. Với sự chiêm ngưỡng, tôi không ngừng cất lên lời tạ ơn vì những kì công Thiên Chúa làm. Tôi cũng tạ ơn chúa vì những điều tôi chỉ thấy vẽ thô thiểu bên ngoài mà chưa khám phá được cái mĩ lệ bên trong. Tôi nuối tiếc khi viết về hành trình tâm linh tôi đã không lột tả được hết những gì có thể, vì bút lực non yêú. Hôm nay khi suy niệm về việc xin làm cho Danh thánh Cha vinh hiển tôi khâm phục sự khám phá tinh tế của một nhà văn Tây phương khi ông nhìn thấy thế giới trong một hạt bụi như sau: “Nhìn ra thế giới trong … Thiên đường hiển lộ… Trong lòng bàn tay… nắm Thiên thu trong mỗi giờ qua.”

Tất cả vũ trụ này đều bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Vì thế xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển là mục đích của cuộc sống chúng ta. Xin cho chúng ta được khuôn rập theo đức Ki tô, Đấng đã từng tuyên bố: Phần tôi, tôi  không  tìm vinh quang cho riêng mình” (Ga 8,50) mà để danh Cha được vinh hiển. Vì thế, mọi công việc Ngài làm đều quy hướng về mục đích tối hậu này. Như thế, bổn phận của chúng ta, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển là kèm theo những mặt sau: - Cải tiến khả năng khám phá nơi mình.

Nổ lực khám phá những gì Thiên Chúa đã dựng nên cho tôi hưởng dùng mà ngợi khen Ngài.
Trong bất cứ lãnh vực nào lạy Chúa, xin cho chúng con có bổn phận làm cho danh thánh Cha vinh hiển. Trốn tránh bổn phận này là chúng con quên lời cam kết kèm theo lời kinh : ‘xin làm vinh hiển danh Cha”. Xin Chúa biến lời kinh thành chương trình sống cho mỗi chúng con.

                                                                                                                           

31 thg 8, 2014

TỈNH DÒNG NGÔI LỜI VIỆT NAM: THÁNH LỄ TRUYỀN CHỨC LINH MỤC CHO 14 THẦY PHÓ TẾ

“Chén vàng phụng lĩnh trên tay
Hiến dâng tạ Chúa những ngày đời con”
Trong niềm hân hoan, háo hức của thánh lễ truyền chức Linh mục cho 14 tu sĩ Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời, sáng ngày 28/8/2014 từ các ngã đường hướng về nhà thờ Đồng Tiến, 54 Thành Thái, Phường 12, Quận 10, Thành Phố Hồ Chí Minh, tấp nập xe cộ hơn mọi ngày, hầu hết là của cộng đoàn dân Chúa từ khắp nơi quy tụ về đây, để tham dự Thánh lễ.

23 thg 5, 2014

Cắt Tỉa Trong Đời Tu (Ga 15, 1-8)



Deacon Anthony Thanh Thịnh
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su dùng hình ảnh cành nho phải được gắn kết với thân nho để sinh hoa kết trái. Chúa Giê-su muốn nói về mối tương quan giữa mỗi người chúng ta với Ngài. Lời Chúa là chung cho hết mọi người, thế nhưng hôm nay tôi có cảm giác như Chúa Giê-su muốn nói riêng với từng anh em chúng ta.

Chúa Giê-su nói trong bài Tin mừng, điều kiện để cây nho sinh hoa kết trái dồi dào, trước tiên là cành cây phải gắn kết với thân cây. Đồng thời phải được chăm bón mỗi ngày, phải được cắt tỉa cẩn thận nữa.
Với người không chuyên môn, khi mình nhìn thấy cành nho bị cắt tỉa, nhiều người xót xa lắm! Bởi vì người trồng nho xem ra cắt tỉa cây nho không chút thương tiếc. Nhưng một thời gian ngắn sau đó, người ta sẽ phải ngạc nhiên khi nhìn thấy từ những cành trơ trụi, giờ đây đầy những mầm non đang đâm chồi, báo hiệu một mùa nho bội thu.

Đường của Chúa, đường của con

Giuse Võ Lê
Đoạn Tin Mừng hôm nay nằm trong phần diễn từ trước khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Ngài loan báo cho các môn đệ biết về tương lai và số phận của các môn đệ Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em”. Theo Tin Mừng thứ 4, thế gian mà Đức Giêsu nói đến là những kẻ chống đối và tìm cách bách hại Ngài trong suốt sứ vụ công khai. Đại diện cho thế gian thù ghét là những người Do thái, các thượng tế và các thuộc hạ:“Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước”. Qua đó, các môn đệ, những người theo sát bước chân của Đức Giêsu cũng trở thành đối tượng thế gian thù ghét và bách hại.

Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội luôn phải đối diện với các thế lực thù ghét, chống đối và bách hại. Điều này nói lên rằng, mang danh Kitô hữu, chúng ta trở thành đối tượng thù ghét của thế gian. Và như thế, cuộc sống của chúng ta phải trở thành dấu chỉ cho lòng trung tín vào con đường đã chọn-con đường Giêsu.
Con đường Đức Giêsu đã chọn là con đường của đau khổ, bắt bớ, con đường của sự chết. Nhưng cuối con đường ấy là vinh quang Phục Sinh. Các môn đệ, những người đi theo Chúa cũng phải trải qua con đường đau khổ như thầy mình. Chúng ta, những kitô hữu, những người đi theo Chúa cũng không ngoại lệ. Nhưng chúng ta luôn tin tưởng một điều, chỉ có trải qua những đau khổ trong cuộc sống chúng ta sẽ được phục sinh trong vinh quang.

19 thg 4, 2014

Dấu chứng Phục Sinh



Chúa nhật Phục Sinh A
Deacon Tiền Lê,SVD
Hôm nay Giáo hội long trọng mừng biến cố Đức Giêsu Phục Sinh từ cõi chết. Giả như biến cố này xảy ra trong thời đại hôm nay thì sẽ là một cơn địa chấn, thu hút sự quan tâm của tất cả mọi người trên thế giới. Tuy nhiên, khi một sự kiện lạ thường xảy ra thì mục đích của phần đông những người quan tâm chỉ vì sự hiếu kỳ mà thôi. Còn chúng ta, những người Công giáo đến với sự kiện Đức Kitô phục sinh chỉ vì lòng yêu mến, tin tưởng và niềm hy vọng vào sự tái hồi của cuộc sống viên mãn của chính chúng ta, nhờ tiền lệ phục sinh của Con Thiên Chúa làm người. Tuy nhiên với một sự kiện xẩy ra cách đây hơn 20 thế kỷ, có thể niềm tin ấy trong ta có đôi lúc nhạt nhòa vì tính thực hư của nó. Vậy đâu là cơ sở để chúng ta xác tín lại niềm tin vào Đấng Phục Sinh?

5 thg 4, 2014

Hạnh phúc tái hồi cho một tang gia



Chúa nhật V Mùa chay A
Deacon Tiền Lê, SVD
Một không khí ảm đạm, tang thương bao trùm lên gia đình của Mattha và Maria sau khi tảng đá cửa mộ được phủ lấp và thân xác Ladarô đã nặng mùi. Đó là một mất mát lớn cho gia đình hai chị em Mattha và maria, đồng thời cũng là nỗi đau của những người thân cận, hàng xóm của họ. Đức Giêsu cũng xót thương và cám cảnh trước sự ra đi của người bạn, Đức Giê-su đã rơi lệ. Đứng trước những bệnh tật, đau khổ của con người Ngài đã ra tay cứu chữa. Còn giờ đây khi phải đối diện với cái chết như một quy luật của đời người, Ngài đã làm gì? Phải chăng Ngài vẫn bất lực, vẫn phải bó tay như bao người thầy thuốc, bao vị lang y khác hay sao? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem Ngài làm gì trước cái chết của con người? Qua việc phục hồi sự sống cho ông Ladarô mạc khải cho chúng ta ý nghĩa gì về việc kẻ chết sống lại sau này?

29 thg 3, 2014

Nghịch lý: kẻ mù thì sáng, kẻ sáng lại mù!



Chúa Nhật IV Mùa chay A
Deacon Tiền Lê, SVD
Theo số liệu thống kê, năm 2013 trên thế giới có khoảng hơn 13 triệu người bị bệnh mù mắt. Giới chuyên môn xác định rằng, có hai nguyên nhân dẫn tới sự mù lòa: Một là mù do tai nạn, bệnh tật và nguyên nhân thứ hai là mù do bẩm sinh. Trường hợp người được Chúa Giêsu chữa lành hôm nay thuộc trường hợp thứ hai, mù từ thuở mới sinh. Thông thường nếu bị mù do bệnh tật, hoặc do tại nạn thì xác suất chữa lành có phần dễ dàng hơn là mù do bẩm sinh. Thế nhưng hôm nay Chúa Giêsu đóng vai một lương y chữa bệnh cho người mù. Từ cái mù thể lý được chữa lành, chúng ta nghĩ gì về cái mù tâm linh của những người Biệt phái, Pharisêu và của nhiều người trong thời đại chúng ta hôm nay?

27 thg 3, 2014

Ý NGHĨA ĐÍCH THỰC CỦA DẤU LẠ CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH (P. 3)



3.    Đối diện với Đấng được sai phái (9,35-38)
Đây chính là chặng đường quan trọng nhất trong tiến trình “chữa lành anh mù” của Đức Giê-su. Khởi đầu khi “làm cho anh được sáng mắt”, “Anh mù đã sáng mắt” hoàn toàn thụ động, không nói một lời nào. Có thể nói bây giờ Anh mới nhìn thấy Đức Giê-su, thực sự có cuộc gặp gỡ Người, Đấng mà Anh đang tìm hiểu. Việc chấp nhận bị “trục xuất” vì những lý luận về nguồn gốc của Đức Giê-su đã chứng tỏ rằng Anh sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ Đức Giê-su.

Ý NGHĨA ĐÍCH THỰC CỦA DẤU LẠ CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH (P.2)



2.     GIAI ĐOẠN II: CHỮA LÀNH BỆNH MÙ ĐỨC TIN
Toàn thể tiến trình làm cho Anh mù sáng mắt có thể được coi như giai đoạn một của tiến trình gồm hai giai đoạn chữa lành nội tâm Anh mù. Giai đoạn hai là toàn bộ quá trình anh mù đối đáp với các nhóm người khác nhau, từ những người láng giềng bình dân cho đến giáo quyền Do thái, rồi cả những người Pha-ri-sêu, để lãnh lấy hậu quả bị trục xuất, sau đó gặp lại Đức Giê-su để tuyên xưng đức tin vào Người. Giai đoạn này ứng với hành động “đi, rửa ở hồ Si-lô-am, trở về” của “Anh mù đã sáng mắt”.
Giai đoạn 2 anh mù sẽ đi qua các cuộc chất vấn về những cảm nghiệm của mình về Đức Giê-su, để rồi từng bước nhận ra và tuyên xưng niềm tin vào Người.
Các nhóm người tranh luận cùng “Anh mù đã sáng mắt”[i] được thay đổi theo khuynh hướng từ ít quyền lực cho đến nhiều quyền lực hơn; Từ các nhóm đơn lẻ cho đến tập thể; từ nhẹ nhàng cho đến gay gắt. Đối lại, xác tín của Anh về Đức Giê-su ngày càng rõ ràng và mạnh mẽ hơn. Hậu quả anh phải chịu cũng tiến triển từ thắc mắc, đến khiển trách, và đến “trục xuất”.

Ý NGHĨA ĐÍCH THỰC CỦA DẤU LẠ CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ TỪ THUỞ MỚI SINH (P.1)



Deacon Duy Thạch, SVD

Dẫn nhập

Tin Mừng thứ tư được chia thành 3 phần rõ rệt như ba cuốn sách. Thứ nhất là “Lời Tựa”(1,1-51); thứ hai, “Sách các dấu lạ” (2 – 12) [Tin Mừng thứ tư chỉ dùng “Dấu lạ” (sign), không dùng “phép lạ” (miracle)][i] và thứ ba là “Sách Giờ tôn vinh” (13 – 21). “Sách các dấu lạ” ghi lại tất cả 8 dấu lạ Đức Giê-su. Dấu lạ 1 ở Cana, nước hóa thành rượu; dấu lạ 2 ở Cana, chữa con trai một quan chức; dấu lạ 3, chữa người bệnh 38 năm; dấu lạ 4, bánh hóa nhiều; dấu lạ 5, Đức Giê-su đi trên biển; dấu lạ 6, chữa lành người mù từ thưở mới sinh; dấu lạ 7,  chết và sống của La-da-rô; dấu lạ 8, mẻ cá lạ lùng ở hồ Ti-bê-ri-a.[ii] 
Tất cả những dấu lạ do Đức Giê-su làm không phải là “dấu lạ vì dấu lạ” nhưng mỗi dấu lạ đều có một điều kiện là tin và một mục đích là dẫn đến đức tin. Dấu lạ “Chữa lành người mù từ thuở mới sinh” (9,1-41) là dấu lạ thứ 6 trong loạt 8 dấu lạ Đức Giê-su đã làm. Theo tác giả Rudolf Schnackenburg, dấu lạ này cùng với dấu lạ làm cho Anh La-za-rô sống lại (ch.11) đánh dấu đỉnh điểm công trình của Đức Giê-su qua những dấu chỉ.[iii] Như thế, hẳn đây là dấu lạ có ý nghĩa hết sức đặc biệt? Đức Giê-su đã chữa lành “người mù từ thuở mới sinh” như thế nào? đâu là thái độ của những người nghe biết về dấu lạ này? Dấu lạ này có ý nghĩa gì đối với “Anh mù”? Anh phải làm gì để được chữa lành hoàn toàn? Đó là những vấn nạn có thể tồn tại trong trình thuật về dấu lạ này và dự kiến sẽ được làm rõ sau khi nghiên cứu bản văn 9,1-41.

22 thg 3, 2014

CUỘC GẶP GỠ VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU BÊN BỜ GIẾNG GIA-CÓP (P2)

Deacon Duy Thạch, SVD


Câu chuyện tiếp theo với khúc chuyển: các môn đệ trở về. Trình tự câu chuyện là: Môn đệ đi - người phụ nữ đến; môn đệ về – người phụ nữ đi. Dường như họ không tiếp xúc với nhau. Lý do là gì? Tác giả đã cho thấy rõ trong 4,27: “Các Ong ngạc nhiên vì Người nói chuyện với một phụ nữ”. Cả hai động từ “ngạc nhiên” và “nói chuyện” đều ở thì chưa hoàn thành, diễn tả một cảm xúc rất mạnh và lâu dài chứ không phải tạm thời và họ nhận ra Đức Giê-su “nói chuyện” với người phụ nữ một khoảng thời gian dài trước đó chứ không phải chỉ là vài câu chào hỏi.[i] Tuy nhiên, các môn đệ không ai lên tiếng hỏi: “Thầy cần gì?” hay “Thầy nói gì với Chị ấy?”(4,27).

CUỘC GẶP GỠ VÔ TIỀN KHOÁNG HẬU BÊN BỜ GIẾNG GIA-CÓP (P1)



Deacon Duy Thạch,SVD

Dẫn nhập

Ga 4,4-43 tường thuật lại những cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri và nhiều người Sa-ma-ri trên chính vùng đất của họ. Đây là câu chuyện chỉ có trong Tin Mừng thứ tư. Nếu như trong Tin Mừng Mát-thêu Đức Giê-su căn dặn các môn đệ là “tốt hơn nên đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10,5-6) thì trong Tin Mừng thứ tư Đức Giê-su lại đích thân đến vùng Sa-ma-ri, bỏ qua mọi cấm kỵ để trò chuyện với một phụ nữ Sa-ma-ri.

Trong đoạn văn có ít nhất hai cuộc đối thoại. Trong đó, có một cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri về ba đề tài  khác nhau: về “nước sự sống”, về “những đời chồng” và “về nơi thờ phượng” và một cuộc đối thoại với các môn đệ về “lương thực đích thực” và “phận vụ của các môn đệ”. Điều đó có nghĩa là trong đoạn văn này, Đức Giê-su dùng đa phần thời gian cho cuộc nói chuyện với Người phụ nữ Sa-ma-ri. Người không những trò chuyện với những Người Sa-ma-ri mà còn lưu lại vùng đất của họ đến hai ngày trước khi trở về Ga-li-lê. Đề tài của cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và Người phụ nữ không giống nhau. Có sự biến chuyển đề tài liên tục: từ chủ đề “nước hằng sống”, đến “những đời chồng” và rồi đến “nơi thờ phượng đích thực”. Cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và các môn đệ lại biến chuyển từ chủ đề “lương thực” cho đến “đồng lúa chín vàng” và “mùa gặt”.

16 thg 3, 2014

Ý NGHĨA CUỘC BIẾN HÌNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU

Deacon Duy Thạch, SVD
Cuộc biến hình của Đức Giê-su là một biến cố rất đặc biệt được cả 3 Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật lại (Mt 17, 1-8; Mc 9:2-8; Lc 9:28 -36). Khác với những biến cố khác, Đức Giê-su đã không thông báo điều gì sẽ xảy ra, các môn đệ chắc chắn không có ý niệm gì trong đầu về điều đó, và sự kiện này không bao giờ lặp lại. Cũng không có một lời nào trong sách Cựu Ước tiền báo về việc này. Cũng không có một nối kết nào với bất cứ một bài giảng nào của Đức Giê-su, và Đức Giê-su bảo những người chứng kiến cuộc biến hình phải giữ kín về những gì họ đã thấy. 

8 thg 3, 2014

Ba cơn cám dỗ điển hình


Chúa nhật I Mùa chay A
Deacon Tiền Lê, SVD
Hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đối diện với một thực tế của thân phận làm người: bị cám dỗ. Khi quan sát diễn tiến của ba cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu vừa trải qua chúng ta có suy nghĩ gì về thái độ của Ngài trước những cơn cám dỗ đó và sự khôn khéo của ma quỷ được thể hiện như thế nào trong cuộc đấu trí với Đấng cứu độ trần gian?

1.         Ba cơn cám dỗ điển hình
Thời điểm thích hợp: ma quỷ đã lựa chọn một thời điểm hết sức thuận tiện để tiến hành cuộc cám dỗ Chúa Giêsu. Cơn cám dỗ diễn ra trong lúc đức Giêsu đang ở thế yếu: đói,  khát thân xác và tinh thần mỏi mệt sau những ngày chay tịnh. Ngài đang ở một mình trong sa mạc, trong cô độc và trong hoang vắng. Những lúc như thế, người ta dễ thấy mình lạc lỏng, cô đơn yếu đuối nên dễ ngã theo những lôi cuốn khác để bảo tồn sự hiện hữu của mình.

3 thg 3, 2014

Những người có của thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao!!!



Antôn Binh Sắc, SVD
Mọi nỗ lực để thoát khỏi cảnh đói nghèo là vấn đề ưu tiên và là điều muôn thuở của kiếp người. Hẳn, ai cũng muốn cho mình có một cuộc sống sung túc no đủ. Đây là mong muốn chính đáng và là một phần không thể thiếu của cuộc sống. Bởi vì tiền bạc của cải là “kiến trúc sư” làm nên tế nhị, biết điều và khôn ngoan. Nói chung, của cải mang lại nhiều lợi ích cần thiết. Cần thiết đến nỗi có lúc người ta nâng lên địa hạt thần thánh để rồi tôn thờ và lệ thuộc vào nó như kiểu nói: “có tiền mua tiên cũng được”, “Tiền không chân xa gần đi khắp”, hay như Nguyễn Bỉnh khiêm thì tỏ ra cay đắng: “còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết tiền hết gạo hết ông tôi”. Tuy nhiên, tiền bạc cũng chính là nguyên nhân của biết bao đổ vỡ như, tục ngữ có câu: “Tiền bạc phá nhân nghĩa” hay “tiền bạc là chìa khóa vàng mở cửa nào cũng được, trừ cửa Nước trời”.

1 thg 3, 2014

Lời mời gọi tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa



Chúa Nhật VIII - TN. A
Deacon Tiền Lê, SVD
Sống ở đời ai cũng ghét cay ghét đắng những kẻ ăn ở hai lòng, lật lộng, ăn ở như trở bàn tay. Những người sống theo kiểu: “gió chiều nào che chiều đó” luôn bị người đời khinh dễ.

Cũng thế, Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu lên án thái độ của những kẻ vừa coi của cải vật chất như là mục đích cứu cánh của đời mình, nhưng lại vừa muốn sở hữu được cả Thiên Chúa, tức là Nước Trời cùng một lúc. Chúa Giêsu đã lên án thái độ “bắt cá hai tay” đó bằng lời cảnh báo: “Không ai có làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6,24). Mỗi khi cậy vào của cải vật chất, thì chúng ta dễ dàng loại chúa ra khỏi cuộc đời của chúng ta. Như thế có nghĩa là chúng ta tin vào sức mạnh của tiền tài vật chất hơn là tin vào Thiên Chúa.