Deacon Duy Thạch,SVD
Dẫn nhập
Ga
4,4-43 tường thuật lại những cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ
Sa-ma-ri và nhiều người Sa-ma-ri trên chính vùng đất của họ. Đây là câu chuyện
chỉ có trong Tin Mừng thứ tư. Nếu như trong Tin Mừng Mát-thêu Đức Giê-su căn dặn
các môn đệ là “tốt hơn nên đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10,5-6) thì
trong Tin Mừng thứ tư Đức Giê-su lại đích thân đến vùng Sa-ma-ri, bỏ qua mọi cấm
kỵ để trò chuyện với một phụ nữ Sa-ma-ri.
Trong
đoạn văn có ít nhất hai cuộc đối thoại. Trong đó, có một cuộc đối thoại với người
phụ nữ Sa-ma-ri về ba đề tài khác nhau:
về “nước sự sống”, về “những đời chồng” và “về nơi thờ phượng” và một cuộc đối
thoại với các môn đệ về “lương thực đích thực” và “phận vụ của các môn đệ”. Điều
đó có nghĩa là trong đoạn văn này, Đức Giê-su dùng đa phần thời gian cho cuộc
nói chuyện với Người phụ nữ Sa-ma-ri. Người không những trò chuyện với những
Người Sa-ma-ri mà còn lưu lại vùng đất của họ đến hai ngày trước khi trở về
Ga-li-lê. Đề tài của cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và Người phụ nữ không giống
nhau. Có sự biến chuyển đề tài liên tục: từ chủ đề “nước hằng sống”, đến “những
đời chồng” và rồi đến “nơi thờ phượng đích thực”. Cuộc đối thoại giữa Đức
Giê-su và các môn đệ lại biến chuyển từ chủ đề “lương thực” cho đến “đồng lúa
chín vàng” và “mùa gặt”.
Vậy,
tại sao Đức Giê-su lại phải đến miền Sa-ma-ri? Người cần gì khi phải vượt lên những điều cấm kỵ để nói chuyện
lâu giờ với một người phụ nữ Sa-ma-ri? Đâu là ý nghĩa sâu xa của cuộc đối thoại
với nhiều đề tài khác nhau ấy? Cuộc đối thoại của Người với các môn đệ có ý
nghĩa gì? Và qua những cuộc đối thoại này tác giả muốn nói gì với các độc giả
thế kỷ thứ nhất và các độc giả qua mọi thời đại? Đó là những vấn nạn được đặt
ra mà bài nghiên cứu sau đây sẽ giúp trả lời phần nào những vấn nạn ấy.
I.
THẦY PHẢI ĐẾN
SA-MA-RI
1.
Tại sao Đức Giê-su
phải đến Sa-mari
Trong câu 4, người thuật chuyện diễn
tả rằng: “Nhưng Người phải băng qua
Samari”. Trong tiếng Hy-lạp động từ “dei” (impersonal verb) ở
thì vị hoàn, diễn tả một hành động cần thiết theo bổn phận phải làm. Chính vì
thế mà tác giả E. Brown đã giải thích rằng: đây không phải là một sự cần thiết
về mặt địa lý bởi vì dẫu rằng con đường chính để đi từ Giu-đê lên Ga-li-lê là
băng qua Sa-ma-ri. Nếu Đức Giê-su đang ở thung lũng Gio-đan (3,22) thì Người có
thể đi qua rãnh núi Beth-shan để lên Ga-li-lê một cách dễ dàng mà không cần đi
qua Sa-ma-ri.[i]
Lối giải thích này xem ra phù hợp khi kết hợp với liên từ “nhưng” (dei) ở trong
câu.[ii] Mạch văn
không có gì trái ngược với câu trước để dùng liên từ nhưng ở đây. Tuy nhiên, có
lẽ người thuật chuyện muốn diễn tả sự cần thiết về mặt thần học của việc Đức
Giê-su đi qua Sa-ma-ri với ngụ ý rằng: Người sẽ đi Ga-li-lê nhưng trước khi đi
Ga-li-lê Người buộc mình phải băng qua Sa-ma-ri. Người đi qua đó không phải vì
không có con đường nào khác, cũng không phải đường này dễ đi hơn các đường khác
nhưng Ngài có một nhiệm vụ lớn lao, cần thiết, nhất quyết phải thi hành tại
vùng này. Đó có thể được xem như một sự cố tình có chủ ý của Đức Giê-su chứ
không đơn thuần chỉ là một đoạn đường trong một lộ trình về Ga-li-lê. Tác giả
F.J. Moloney cũng cho rằng động lực làm cho Đức Giê-su chọn lộ trình đi qua
Sa-ma-ri là một sự thúc ép để Người thực hiện câu chuyện của mình. Đó là một sự
cần thiết mang tính thần linh. Người phải đến với thế giới bên ngoài dân
Ít-ra-en.[iii] Khi chú
giải câu văn này tác giả William Barlay chỉ đơn giản cho rằng sở dĩ Đức Giê-su
phải băng qua Sa-ma-ri để đi đến Ga-li-lê vì đó là con đường ngắn nhất.[iv] Luận cứ
này xem ra không phù hợp lắm vì những gì xảy ra sau đó cho phép chúng ta hiểu ý
định “băng qua Sa-ma-ri” của Đức Giê-su có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Hơn nữa,
cũng nên chú ý rằng trong Tin Mừng thứ tư động từ dei (phải) được sử dụng trên dưới 10 lần (3,7.14.30;
4,4.20.24; 9,4; 10,16; 12,34; và 20, 9). Riêng trong chương 4
động từ này xuất hiện 3 lần và điều đặc biệt là động từ này thường diễn tả ý muốn
hay kế hoạch của Thiên Chúa.
Như vậy, qua những
phân tích trên có thể kết luận là việc Đức Giê-su phải băng qua Sa-ma-ri phải
được hiểu theo chiều hướng thần học của bản văn: Đức Giê-su thấy cần thiết phải
băng qua vùng Sa-ma-ri vì Ngài cũng có sứ vụ phải thi hành tại nơi này. Đó có
thể được xem như một kế hoạch một niềm ước mong và một bổn phận được trù bị trước
chứ không phải là việc tình cờ hay là một lộ trình chỉ mang nghĩa địa lý mà
thôi.
Trong đoạn Tin Mừng này danh từ địa danh
Sa-ma-ri được nhắc đến 2 lần. Sa-ma-ri vốn là vùng đất thuộc vương quốc phía Bắc,
Ít-ra-en, sụp đổ năm 721. Mối quan hệ giữa người Sa-ma-ri và người Do thái vốn
không tốt. Người Do thái xem người Sa-ma-ri là dân ngoại lai và ngoại đạo. Sau
thời kỳ lưu đày, người Do Thái xây lại đền thờ
Giê-ru-sa-lem nhưng nhất quyết không đón nhận đóng góp của người Sa-ma-ri. Mối
tương quan giữa người Do thái và Sa-ma-ri ngày càng xấu đi cho đến khoảng thế kỷ
thứ IV khi người Sa-ma-ri xây đền thờ trên núi Garizim và cuối thế kỷ II đền thờ
này bị Gio-an Hycarnus, lãnh đạo của Giu-đa phá hủy, thì chia rẽ diễn ra hoàn
toàn.[v] Như vậy,
trên bình diện thực tế lịch sử, người Do thái và người Sa-ma-ri vốn có một mối
hiềm khích rất lớn. Người Do thái không muốn qua lại vùng Sa-ma-ri. Trong Tin Mừng
thứ tư có một chỗ người Do thái gọi Đức Giê-su là người Sa-ma-ri: “Chẳng đúng sao khi chúng tôi nói rằng Ông là
người Sa-ma-ri và là người bị quỷ m?” (8,48). Đây quả là một lời nhục mạ
khinh bỉ nhắm vào Đức Gi-su.[vi] Như thế,
trên bình diện thần học vùng Sa-ma-ri quả là một vùng rất cần sự thăm viếng của
Đức Gi-su.
Giáo
phụ Giê-rô-ni-mô đồng hóa Sy-kha với Sy-khem bởi vì không có một dấu tích nào
trong vùng Sa-ma-ri có tên là Sy-kha. Sau này, tác giả E.Brown cũng đồng ý với
quan điểm ấy và lý giải như sau: sở dĩ viết là Sy-kha có lẽ là do một sự sai
sót về cách phát âm dưới sự ảnh hưởng của âm “ar” trong chữ Samaria.
Hơn nữa, nếu Sy-kha trùng với Sy-khem thì mọi thứ đều trùng khớp bởi vì giếng
Gia-cóp cách Sy-khem chỉ khoảng 100m (250 ft.).[vii] Sy-kha
là địa danh quan trọng vì nó nằm gần với thửa đất mà tổ phụ Gia-cóp đã cho con
mình là Giu-se. Điều này được nói đến trong sách Sáng thế: “Còn cha, cha cho con thêm một phần hơn các
anh em con, là thành Si-khem cha đã dùng gươm và cung của cha mà chiếm được từ
tay người E-mô-ri"(St 48,22). Chính vì thế mà sau này con cái Ít-ra-en
chôn xác tổ phụ Giu-se nơi đây: “Hài cốt
ông Giu-se mà con cái Ít-ra-en đã đem lên từ Ai-cập, thì được chôn cất ở
Si-khem” (Gs 24,32).
Như vậy,
những chi tiết liên quan đến địa danh Sy-kha cho thấy địa danh này thật là ý
nghĩa. Địa danh này gắn liền với hai tổ phụ của dân Ít-ra-en nhưng nay lại nằm
trong vùng Sa-ma-ri, một vùng đất mà dân Ít-ra-en không muốn lui tới nữa. Điều
này cũng ngụ ý một sự chia cắt trong cõi lòng con người rất cần được hàn gắn.
Hơn nữa, địa danh cụ thể trong trình thuật này cho thấy trình thuật này không
phải là một chuyện giả tưởng. Tác giả đặt câu chuyện trong một địa danh cụ thể
mà ông biết rất rõ địa hình, địa vật.
Sau khi đã giới thiệu về những địa danh của
vùng sẽ diễn ra câu chuyện, tác giả đã dẫn người đọc vào một địa điểm cụ thể
hơn: bên bờ giếng Gia-cóp. Chính nơi đây mới là không gian chính diễn ra phần lớn
câu chuyện. Cựu Ước không đề cập đến giếng Gia-cóp nhưng chỉ nói đến khoảng thời
gian tổ phụ Gia-cóp và gia đình sinh sống ơ Si-khem (St 33, 18 – 34, 31). Tuy
nhiên, việc ấy không quan trọng cho bằng đặc tính thần học quan trọng của giếng
nước. Thực vậy Kinh Thánh nhiều lần ghi lại nhiều trình thuật về các tổ phụ gắn
liền với bờ giếng (St 24,11; 29,2; Xh 2,15). Trong đTin Möng thứ tư từ giếng (phgh.) được nhắc đến 5 lần và đều nằm trong đoạn văn này (4,
6a.6b.11.12a.12b). Nước (u[dwr) được nhắc đến 34 lần
trong Tin Mừng thứ tư và riêng trong đoạn văn này tác giả dùng đến 7 lần (4,7.9.13.14a.14b.14c.15).
Nước trong Tin Mừng Thứ Tư, và cách riêng trong đoạn văn này, không đơn thuần
chỉ là thức uống giúp đáp ứng những nhu cầu của con người về phần xác nhưng còn
mang một ý nghĩa sâu xa hơn nữa.
II.
NHỮNG CUỘC ĐỐI THOẠI
NGÔN SỨ
Khởi đầu từ một cảm xúc bình thường của một
khách bộ hành, “vất vả vì đi đường nên ngồi
xuống bờ giếng”(4,6), Đức Giê-su đã ngõ lời “nói với” người phụ nữ: “cho
tôi uống với”(4,7). Động từ “nói” được sử dụng 25 lần trong đoạn văn này.
Điều này cho thấy một môi trường đối thoại cởi mở được diễn ra giữa Đức Giê-su
và người phụ nữ Sa-ma-ri. Điều đặc biệt ở đây là chính Đức Giê-su là người mở lời
trước. Điều này xem ra phù hợp với ý nghĩa câu 4,4: “Người phải băng qua
Sa-ma-ri”. Người phải gặp người Sa-ma-ri và phải mở lời đối thoại với họ.[viii] Cuộc
đối thoại của Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri xoay quanh ba chủ đề: (1) Về
nước hằng sống; (2) về những đời chồng; (3) về sự thờ phượng đích thực. Phần
sau sẽ phân tích từng chủ đề của cuộc đối thoại để tìm ra ý nghĩa của cuộc đối
thoại.
a.
Cơn khát vào “giờ
thứ sáu”
Câu chuyện diễn ra trong thời điểm
“khoảng giờ thứ sáu” (4,6). Đây là thời gian rất đặc biệt trong Tin Mừng thứ
tư. Thuật ngữ “khoảng giờ thứ sáu” chỉ xuất hiện đúng hai lần trong Tin Mừng thứ
tư (4,6; 19,14). Giờ thứ sáu là mười hai giờ trưa. Về phía Đức Giê-su: Đây là
khoảng thời gian mà Phi-la-tô quyết định việc đóng đinh Đức Giê-su vào Thập Giá
và trên thập giá Người đã kêu lên rằng: “Tôi khát” (19,28). Về phía người phụ nữ:
đây là khoảng thời gian rất bất thường cho công việc kín nước vì người ta thường
làm công việc này vào buổi sáng sớm hoặc chiều tối. Cuộc đối thoại được Đức
Giê-su mở đầu:“Cho tôi uống với”. Trong
Tin Mừng thứ tư, Đức Giê-su cũng bày tỏ sự khác ở một nơi khác: “ta khát” (diyw/) (19,28). Tuy nhiên, động từ “khát” không chỉ có nghĩa đen mà còn
mang nghĩa biểu tượng. Việc Đức Giê-su yêu cầu: “Cho
tôi uống với” hẳn phải có một ý nghĩa sâu xa khác. Đức Giê-su yêu cầu như vậy
không đơn thuần để làm dịu cơn khát thể lý nhưng vì tình yêu thúc ép Người mang
ơn cứu độ cho muôn người, để rồi khi chịu treo trên thập giá Người lại nói: “Ta
khát” (19,28).[ix]
b.
Người Do thái lại
xin người Samari nước uống
Người phụ nữ Sa-ma-ri đã tỏ ra hết sức
ngạc nhiên vì hai lý do mà chính Chị cũng nhận thức rõ: “một người Do Thái” xin
“một phụ nữ Sa-ma-ri” (4,9). Trong câu nói của người phụ nữ vừa ẩn chứa sự ngạc
nhiên, vừa mang một chút châm biếm nào đó. Đây là lần duy nhất trong Tin Mừng
thứ tư, Đức Giê-su được gọi là người Do Thái. Danh từ người Do thái được áp dụng cho Đức Giê-su và người Do Thái ở
4,22 có thể là cùng một nghĩa: đó là một người gốc dân tộc Do Thái, khác với
người gốc Sa-ma-ri. Nên biết rằng trong Tin Mừng thứ tư còn nhắc đến cụm từ “những
người Do Thái” (7,1-7) với một ý nghĩa khác. Đó là những kẻ thù ghét và chống đối
Đức Giê-su, tìm giết Người và bắt bớ cộng
đoàn người tin vào thế kỷ thứ I.[x]
c.
Nước sự sống là gì?
Câu chuyện đột ngột chuyển hướng hết
sức lạ lùng khi Đức Giê-su không trả lời câu hỏi của người phụ nữ nhưng bất ngờ
nhắc đến “ân huệ của Thiên Chúa”, “ai là người nói” và “nước sự sống”. Đây có thể được xem như là câu văn nền tảng,
đặt vấn đề cho toàn bộ đoạn văn 4,4-42. Đức Giê-su từ một người “xin được uống”
bỗng nhiên trở thành người có thể ban “nước sự sống”. Trong câu trích dẫn lời của
Đức Giê-su (4,10) động từ “biết” ở mệnh đề điều kiện chia ở thể chủ động, lối
trình bày, thì quá khứ hoàn thành và động từ “xin” ở mệnh đề chính chia ở thể
chủ động, lối trình bày thì aorist. Điều này chứng tỏ rằng người phụ nữ
Sa-ma-ri không đã không biết ân huệ của Thiên Chúa và đã không xin nên chưa được
ban “nước sự sống”. Cụm từ “nước sự sống” trong mạch văn có thể
hiểu là “ân huệ của Thiên Chúa”. Cụm từ này chỉ xuất hiện ba lần trong Tân Ước
và chỉ chỉ trong Tin Mừng thứ tư (4,10.11; 7,38). Tác giả đồng hóa “nước sự sống”
trong 7,38 với Thần Khí: “điều đó Người nói về Thần Khí” (7,39). Như thế, “nước
sự sống” mà Đức Giê-su muốn nói ở đây có thể là Thần Khí. Các học giả đưa ra
nhiều lý giải khác nhau. Tuy nhiên, “nước sự sống” ám chỉ đến Thần Khí được nhiều
tác giả đồng thuận nhất.
d.
Người phụ nữ hiểu lầm
Câu hỏi tiếp theo của người phụ nữ
Sa-ma-ri cho thấy chị đã không hiểu hay là đã hiểu lầm ý của Đức Giê-su: “Thưa
Ong, Ong không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy, Ong có nước sự sống từ đâu?”. Hiểu
lầm là một trong những kỹ thuật hành văn khá độc đáo của tác giả Tin Mừng thứ
tư. Trước đó trong cuộc đối thoại về việc tái sinh (3,1-21), Ni-cô-đê-mô cũng
đã từng hiểu lầm ý Đức Giê-su. Đức Giê-su nói “nếu không được sinh ra một lần nữa”
thì Ni-cô-đê-mô lại hỏi: “làm sao một kẻ lại được sinh ra khi đã già? Chẳng lẽ
có thể trở vào lòng mẹ mình lần thứ hai để được sinh ra sao?”. Đây là kiểu hành
văn dị nghĩa, gây hiểu lầm, thắc mắc. Qua đó làm lộ ra tư cách mạc khải của Đức
Giê-su.[xi] Nhân vật
trong câu chuyện hiểu lầm, hiểu sai để cho chính độc giả hiểu đúng và nhận ra
chân lý.
e.
Từ người Do thái xa
lạ trở nên “quý Ông” (quý Ngài)
Cụm từ “thưa Ngài” hay “thưa Ong” được Người phụ nữ sử dụng cho thấy sự tiến triển trong cách nhìn của Chị đối
với Đức Giê-su. Chị đã tỏ ra tôn trọng Người hơn và đây là bước đầu tiên cho việc
nhìn nhận tính cách Mê-si-a của Người sau này.[xii] Trước đó,
Chị gọi Đức Giê-su là “Người Do thái” có vẻ xa lạ, một chút kỳ thị và mỉa mai.
Chị không những tỏ ra tôn trọng Đức Giê-su mà bắt đầu quan tâm đến “nước sự sống”
mà Người đề cập dẫu rằng Chị vẫn chưa hiểu rõ về “nước sự sống” ấy, bằng chứng
là Chị đề cập đến việc giếng sâu mà Đức Giê-su lại không có gàu. Có một điều
khá đặc biệt ở đây là giờ đây mối quan
tâm của người phụ nữ không dừng lại ở “nước sự sống” nhưng là chủ thể ban nước sự
sống: la “người đã nói với Chị: ‘cho tôi uống với’”. Có điều Chị vẫn chưa biết
“người đang nói với chị” là ai.
f.
Khác biệt của nước
sự sống và nước giếng Gia-cóp
Cụm từ
“Tôi sẽ ban” xuất hiện hai lần (4,14a.14b) trong đó một lần được
dùng với đại từ tôi có tác dụng nhấn mạnh. Chủ thể ban “nước sự sống” chính là
Đức Giê-su và đặc trưng của “nước sự sống” là: ai uống “đời đời sẽ không khát”
và trong người ấy sẽ có “mạch nước vọt lên sự sống đời đời”. Cụm từ “nơi người ấy
một mạch nước” nhằm phân biệt với giếng Gia-cóp, tức nguồn mạch chỉ thỏa mãn sự
cơn khát tạm thời và phải khơi thông mỗi ngày. Ngược lại “nước sự sống” sẽ tồn
hữu bên trong người tin và trở thành một giếng nước. “Mạch nước vọt lên” là lối
diễn đạt vừa gợi hứng vừa tươi mới. Đức Giê-su hứa ban một giếng nước chảy
tràn, vọt lên và phun trào bên trong người tin.[xiii] Mạch
nước này khác với giếng mà người phụ nữ nói đến ở 4,11.12. Cụm từ “sự sống đời
đời” xuất hiện ít nhất 11 lần trong Tin Mừng thứ tư (3,36;4,14;5,24.39;6,47.68;10,28;
12,25.50; 17,2.3). Đây không chỉ là lời hứa về sự sống sau khi chết nhưng là cuộc
sống tròn đầy bắt nguồn ngay từ bây giờ.[xiv] Người
phụ nữ lúc này đã dần dần bị Đức Giê-su thuyết phục. Tình thế đã đảo ngược, lúc
này không phải Đức Giê-su xin “cho tôi uống với” nhưng là Người phụ nữ “xin cho
tôi thứ nước ấy”. Tuy nhiên, Chị vẫn chưa thực sự hiểu “nước sự sống” là gì và
“Đức Giê-su là ai. Cần phải có thêm những trao đổi và chính Đức Giê-su đã đổi đề
tài.
a. “Tôi không có chồng”
“Chị
hãy đi gọi chồng Chị, rồi trở lại đây”(4,16). Trước câu mệnh lệnh của Đức
Giê-su, Chị đã đáp trả một cách thẳng thắn, không tránh né: “Tôi không có chồng”
(4,17a) và Đức Giê-su cũng đã xác nhận lời ấy là đúng đến hai lần: “Chị nói:
‘tôi không có chồng là phải’” (4,17b) và “điều này Chị đã nói đúng” (4,18). Đức
Giê-su lý giải cho tính chân thật trong câu trả lời của Chị bằng lý chứng là
“Chị có năm đời chồng, và người mà chị có hiện nay không phải là chồng của chị”
(4,18). Con số năm có thể là một số biểu trưng cho năm vị thần của người
Sa-ma-ri hoặc bộ Ngũ Thư của họ.[xv] Câu
chuyện về các đời chồng là cả một ký ức về quá khứ bất ổn của Người phụ nữ.
Chính Chị biết rõ điều ấy và giờ đây chính Đức Giê-su cũng biết rõ điều ấy. Việc
nhìn nhận quá khứ khó khăn của Chị là cơ may để Chị nhận ra Đức Giê-su là ai,
khởi đầu cho một cuộc hoán cải thật sự. J. Moloney cho rằng không cần thiết phải
hiểu “năm đời chồng” theo nghĩa biểu tượng. Tiêu điểm là năng lực biết những bí
mật cuộc sống riêng tư của người phụ nữ. Việc Người nói sẽ ban “nước sự sống” nằm
ngoài hiểu biết của Chị nhưng khi một người nói cho Chị về những bí mật của cuộc
đời Chị hẳn buộc Chị phải chú ý (There is
no need to read the five husbands simbolically. The focus is on Jesus’s power
to know the secrets of her intimate life… His claim to give living water was
beyond her grasp, but a person who tells her about the secrets of her life
commmand her attention).[xvi] Và thật
sự Chị đã chú ý đến con người Đức Giê-su.
b. Từ quý ông đến “một ngôn sứ”
“Thưa
ông, tôi thấy rằng chính ông là một ngôn sứ”. Trong Tin Mừng thứ tư danh xưng
“ngôn sứ” được dành cho Đức Giê-su đến 6 lần (4,19.44; 6,14;
7,40.52; 9,17). Giờ đây, Chị ta đã tập trung vào con người Đức Giê-su- “người
nói với Chị: ‘cho tôi uống với’” - chứ không đơn thuần chỉ là nước nữa. Người
Sa-ma-ri không chấp nhận các Sách ngôn sứ. Vì thế, “ngôn sứ” mà Chị ta muốn nói
ở đây hẳn là “ngôn sứ” như Ong Môi-sê, được nói đến trong Đnl 18,15-18, một vị
ngôn sứ được mong đợi sẽ giải quyết những vấn nạn về luật lệ kiểu như vấn nạn cụ
thể ở 4,20.[xvii]
Cuộc đối thoại về những đời chồng (những bí mật đời tư) của Người phụ nữ đã
giúp Chị ta thừa nhận Đức Giê-su từ “một người Do thái” đến một “ngôn sứ”.
Từ ngữ “thờ phượng” xuất hiện 10 lần trong
đoạn văn này. Điều này cho thấy tầm quan trọng của chủ đề “thờ phượng” trong đoạn
Tin Mừng này. Chủ ngữ của câu chất vấn không còn ở số ít nữa nhưng c.21 đã được
chuyển sang số nhiều. Đây có thể là vấn đề tranh luận giữa người Sa-ma-ri và
người Do thái về nơi thờ phượng. Có hai truyền thống thờ phượng khác nhau. Người
Sa-ma-ri thờ “trên núi này” với hai lý chứng: (1) Ap-ra-ham và Gia-cóp dựng bàn
thờ ở Shi-khem; (2) Ong Giô-suê đã dựng bản thờ trên núi Garizim. Trong Ngũ
Kinh của người Sa-ma-ri người ta tìm thấy lời Ong Giô-suê căn dặn trong sách Tl
27,4 phải lập đền thờ trên núi Garizim, núi thánh, nơi họ tin là Ap-ra-ham sát
tế I-sa-ác.[xviii]
Trong khi đó, người Do thái thì tin rằng phải thờ phượng ở Giê-ru-sa-lem, nơi độc
nhất Thiên Chúa chọn làm nơi danh Ngài ngự. Quy định này nhằm tránh việc dân
chúng hiểu lầm rằng có nhiều đền thờ là có nhiều Thiên Chúa.[xix]
Đức Giê-su gọi người phụ nữ là “bà” (gunai):
“Này Bà, hãy tin tôi”. Đây là lối xưng hô rất trịnh trọng được dùng 6 lần trong
Tin Mừng thứ tư (2,4; 4,21; 8,10; 19,26; 2013.15). Trong đó, có đến hai lần Đức
Giê-su dùng danh xưng này để thưa cùng Đức Ma-ri-a, thân mẫu Người. Đức Giê-su
cũng rất trân trọng Người phụ nữ này. Mệnh lệnh “hãy tin tôi” cũng là mệnh lệnh
khá đặc biệt. Đây cũng chính là lệnh truyền mà Đức Giê-su truyền cho các môn đệ
trong diễn từ biệt ly: “Anh em hãy tin thầy” (14,11).[xx] Có thể
Người phụ nữ cũng cùng tâm trạng với các môn đệ. Họ cùng đang ở trong tình trạng
khủng hoảng về niềm tin nên Đức Giê-su mới phải trấn an như thế. Trong hoàn cảnh
này, người phụ nữ thật sự hoang mang vì Chị đang thờ “Đấng mà Chị không biết”.
Đức Giê-su đã không chỉ trả lời câu hỏi của Người phụ nữ nhưng còn lợi dụng
hoàn cảnh để khẳng định giá trị của lời dạy của các ngôn sứ và quá đó tái xác
nhận chân lý mạc khải. Người Sa-ma-ri không hiểu rõ về kế hoạch của Thiên Chúa
vì họ không chấp nhận những mạc khải nằm ngoài Ngũ Thư. Người Do thái hiểu kế
hoạch của Thiên Chúa hơn vì họ chấp nhận toàn bộ các sách Cựu Ước. Tuy nhiên, cả
Người Do thái lẫn người Sa-ma-ri đều cần phải cởi mở đón nhận chân lý mạc khải
bởi Đức Giê-su.[xxi]
Rõ ràng là đối với Đức Giê-su không phải Giê-ru-sa-lem cũng không phải “núi
này” là “nơi thờ phượng đích thực”. Vấn đề không phải là nơi chốn nhưng là thể
thức thờ phượng, là cõi lòng, là tâm tư con người dành cho Thiên Chúa – Cha của
họ.
Cụm từ “giờ đến” được nói đến hai lần trong
đoạn này (cc.21.23). Cả hai lần đều dùng ở thì hiện tại, lối trình bày, thể
trung bình diễn tả một thực tế tồn tại luôn luôn. “Giờ đến” trong 4,23, nhấn mạnh
“là bây giờ” đối chiếu với 4,21 cho thấy Tác giả Tin mừng thứ tư cũng có chút
căng thẳng như
Tin Mừng Nhất Lãm khi nói về nước Thiên Chúa: tức là cái gì sẽ đến trong tương
lai nhưng lại ở ngay trong tầm tay rồi. Vào giờ Người được tôn vinh Đức Giê-su
sẽ làm cho việc thờ phượng trong Thần Khí được nên trọn bằng việc ban Thần Khí.
Chữ “giờ” ở đây không đích xác chỉ về giờ Tử nạn và Phục Sinh cho bằng chỉ về
hoàn cảnh cánh chung xuất phát từ Giờ tôn vinh ấy.[xxii]
Khi “giờ đến” thì phương thức thờ
phượng sẽ được xác định: “người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong thần
khí và sự thật” (4,23). Người phụ nữ chỉ hỏi Đức Giê-su về “nơi thờ phượng”
nhưng Đức Giê-su lại xác định chủ thể của việc thờ phượng: “người thờ phượng
đích thực” và đối thể của việc thờ phượng: “Cha” và phương thức của việc thờ
phượng: “trong tinh thần và sự thật”. Như vậy, Đức Giê-su đã giúp Chị hiểu ra vấn
đề không phải là “nơi thờ phượng” cho bằng thờ phượng ai và với tinh thần nào.
Với sự hiện diện của con người Đức Giê-su, không gian thờ phượng được mở rộng
ra khăp mọi nơi. Từ “tinh thần” xuất hiện 24 lần trong Tin Mừng thứ tư với nhiều
ý nghĩa khác nhau. Trong 4,23.24b chỉ nên dịch là “thần khí” (viết thường)
nghĩa là “linh thiêng”, “tâm linh”. Trong khi đó từ “Thần Khí” (viết hoa) trong
câu “Thiên Chúa là Thần Khí” (4,24a) được hiểu là Thần Khí Thiên Chúa.[xxiii] Vì
“Thiên Chúa là Thần Khí” nên “những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong
thần khí và sự thật” (4,24). Câu “Thiên Chúa là Thần Khí” không phải là một định
nghĩa về Thiên Chúa cho bằng là một lối diễn tả về cách thức Thiên Chúa đối đãi
con người. Thiên Chúa là Thần Khí đối với con người vì Ngài ban Thần Khí
(14,16) tái sinh con người. Trong các bản văn trường phái Gio-an người ta thường
thấy lối diễn tả quen thuộc như vậy: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4,8) và
“Thiên Chúa là ánh sáng” (1Ga 1,5).[xxiv] Vì
Thiên Chúa là Thần Khí, nên phải được thờ phượng trong thần khí và sự thật. Cụm
từ “phải thờ phượng” (dei/ proskunei/n) cho thấy tầm quan trọng của tinh thần thờ
phượng này. Chỉ có thờ phượng “trong thần khí và sự thật” thì mới xứng hợp.[xxv]
c.
Sự thật là gì?
“Sự
thật là gì?” (18,38) đây là câu hỏi của Phi-la-tô và cũng là một đề tài rất lớn
trong Tin Mừng thứ tư. Quả vậy, trong Tin Mừng thứ tư, danh ngữ sự thật được
dùng đến 26 lần[xxvi].
Trong đó, có một lần Đức Giê-su khẳng định với các môn đệ chính Người là “sự thật”:
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (14,6). Hơn nữa trong 17,7,
Đức Giê-su lại nói: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.”
Rồi trong 8,32, Người lại khẳng định: “các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ
giải phóng các ông". Có rất nhiều dấu hiệu để cho thấy rằng “sự thật” ở
đây chính là Đức Giê-su, Ngôi Lời nhập thể. Ngoài ra, khi Người còn ví mình là
“Cung Thánh” khi Người nói với những người Do thái: “Các ông cứ phá huỷ Cung
Thánh này; và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại nó" (2,19). Và sau đó, tác giả
Tin Mừng cho biết: “Nhưng Người, Người nói vê Cung Thánh là thân thể của Người.”
(2,21). Từ những dẫn chứng này cùng với việc Đức Giê-su khẳng định Thiên Chúa
là Thần Khí (4,24) cho phép chúng ta hiểu muốn “thờ phượng Cha trong thần khí
và sự thật” thì cần phải tin vào Đức Giê-su và thờ phượng theo cách thức của
Người.
d.
Mạc khải tư cách Đấng
Mê-si-a
Như vậy,
thật hợp lý khi cuộc đối thoại thứ hai giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri
kết thúc với một hình ảnh rất đẹp: Đức Giê-su mạc khải tư cách Mê-si-a của Người
cho Chị. Câu trả lời “chính là Tôi” (4,25)(nghĩa là chính Tôi là Đấng Mê-si-a)
của Đức Giê-su chính là mạc khải cho vấn nạn Đức Giê-su đặt ra ở (4,10b): “Ai
là người nói với Chị: ‘cho tôi uống với’”. Có một điều khá lạ lùng là Đức
Giê-su từ khước danh hiệu ngôn sứ và Mê-si-a do người Do thái tung hô
(6,14-15), nhưng lại công khai bày tỏ cho Người phụ nữ Sa-ma-ri. Có thể điều
này phát xuất từ hai quan niệm khác nhau về Đấng Mê-si-a. Người Do thái coi Đấng
Mê-si-a như là một người xuất thân từ hoàng tộc Đa-vít và sẽ dùng quyền năng mà
giải phóng họ khỏi áp bức, nô lệ. Còn đối với người Sa-ma-ri chỉ mong đợi một
Ta’heb – thường có ý nghĩa là thầy dạy về Lề Luật hơn là một ông vua quyền uy.[xxvii]
Hình ảnh
“Người phụ nữ để lại vò nước của mình” (4,28) đã cho cho thấy người phụ nữ đã
có những dấu hiệu biến chuyển tích cực. “Vò nước” không được nhắc đến trước đó
nhưng lại được đưa vào lúc này với một gợi ý rằng người phụ nữ đã không còn
khát nước nữa, không còn cần thứ nước vật chất ấy nữa vì hoặc Chị đã có “nước sự
sống” trong mình hoặc bình nước không còn giá trị với “nước sự sống”.[xxviii] Có
thể Chị đã nhận ra Đức Giê-su phần nào, nhưng chính độc giả sẽ kết thúc xác định Đức Giê-su là ai cùng với
dân Sa-ma-ri trong thành đã tin vào Đức Giê-su (4,39)
[i] R.E.Brown, The Gospel according to John I-XII, (Anchor Bible Series, Vol. 29), (New York: Doubleday, 1970), p.169.
[ii] Bản dịch của nhĩm CGKPV l: “Do đó, Người phải băng qua miền Sa-ma-ri”.
Ở đây liên từ (dei) trong tiếng Hy-lạp được dịch là “do đó” xem ra
không hợp lắm vì theo mạch văn trước đó không đưa ra một lý do no để rút ra hậu
quả như thế. Trong khi đó bản dịch mới của Tác giả Lê Minh Thông là: “Nhưng Người phải băng qua Sa-ma-ri”. Bản
dịch này xem ra hợp lý hơn khi cho thấy sự kết hợp hài hịa giữa lin từ “nhưng”
và trợ từ “phải” làm nên một lý do thần học về sự cần thiết việc Đức Giê-su phải
đi qua Sa-ma-ri.
[iii] Xc.
Francis J. Moloney, The Gospel of John,
The Ligurtical Press, 1998, p.116.
[iv] W.
Barclay, bản Việt
ngữ
Tin Mừng
theo thánh Gioan, nguyên tác: The Gospel of John (Hà nội:Tôn Giáo, 2008), tr.
110.
[v] Xc. Alain Marchadour, Bản Việt ngữ Tin Mừng Gioan (L’Evangile
de Jean, Centurion ,1992), tr. 110-111.
[vi] Xc. Francis J. Moloney, sđd., p.286.
[vii] Xc. R.E.Brown, sđd., p.169.
[viii] Xc. Hoàng Minh Tuấn, Đọc Tin Mừng
Yoan, tập II: Tái sinh bởi Thần Khí (Hà Nội: Tôn Giáo, 2000), tr.267.
[ix] “Jesus make this request not just to slake his physical thirst but
because his love made him thirst for the salvation of all men” (The Navarra Bibble: Gospel & Acts,
Revised Standard Version with a Commentary by members of the Facculty of
Theology of the University of Navarre, Scepter Publishers, 2002, p.573).
[x] Xc. Lê Minh Thông, Yêu và Ghét trong Tin Mừng Gio-an, phần
I (TpHCM: THVĐM,2009), tr. 138-146.
[xi] Xc. Lê Minh Thông, Bản văn Gio-an, Tin Mừng và Ba Thư Hy lạp –
Việt, phần chú thích, tr.63.
[xii] Xc. F.J. Moloney, sđd., p.122.
[xiii] Xc. The complete Biblical Library, Springfield, Missori, U.S.A, 1998 [bản
Việt Ngữ Chân Ngôn, chú giải Tin Mừng
các Chúa Nhật và Đại Lễ- Năm A (TpHCM:TT HVĐM, 2011), tr. 111-112].
[xv] Xc. F.J. Moloney, sđd., tr.131.
[xvi] Xc. F.J. Moloney, sđd., p.127.
[xvii] Xc. R.E.Brown, sđd., p.171
[xviii] Xc. Hoàng Minh Tuấn, sđd., tr.305.
[xix] Ibid., tr.306.
[xx] Xc. The Complete Biblical Library, p.114.
[xxi] Xc. The Navarra Bibble: Gospel & Acts,
sđd., p.575.
[xxii] Xc. Hoàng Minh Tuấn, sđđ., tr.317 – 318.
[xxiii] Xc. Lê Minh Thông, Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng thứ tư (Hà
nội: Tôn Giáo, 2010), tr.142-43.
[xxiv] Xc. R.E.Brown, sđd., p.172.
[xxv] Xc. F.J. Moloney, sđd., p.133.
[xxvi] 1,14.17; 3,21;
4,23.24;5,33;8,16.32a.32b.40.44a.44b.45.46;14,6.17;15,26;16,13a.13b;17,17a.a7b;
18,37a.37b.38; 19,35.
[xxvii] Xc. Hoàng Minh Tuấn, sđđ., tr.342.
[xxviii] R.E.Brown, sđd., p.173.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét