Đây chính là chặng
đường quan trọng nhất trong tiến trình “chữa lành anh mù” của Đức Giê-su. Khởi
đầu khi “làm cho anh được sáng mắt”, “Anh mù đã sáng mắt” hoàn toàn thụ động,
không nói một lời nào. Có thể nói bây giờ Anh mới nhìn thấy Đức Giê-su, thực sự
có cuộc gặp gỡ Người, Đấng mà Anh đang tìm hiểu. Việc chấp nhận bị “trục xuất”
vì những lý luận về nguồn gốc của Đức Giê-su đã chứng tỏ rằng Anh sẵn sàng cho
cuộc gặp gỡ Đức Giê-su.
Cũng như lúc đầu,
chính Đức Giê-su là người chủ động mở lời với Anh chứ không phải Anh tìm Người:
“Anh có tin vào Con Người không?” (9,35c). Thuật ngữ “con người” (huion tu
anthropou), được Đức Giê-su dùng để nói đến vai trò mạc khải Thiên Chúa cho
nhân loại (1,51; 3,13-14; 5,27; 6,27.53.62). Sự hiện diện của Người dưới tư
cách là “Con Người” mạc khải Thiên Chúa và mang đến sự xét xử, nhưng vai trò mạc
khải vẫn chưa đến hồi kết. “Anh mù đã sáng mắt” vẫn bâng khuâng với những câu hỏi
và tự tìm cho mình câu trả lời. Anh vẫn chưa hiểu rõ (9,12.25.36) để đi đến quyết
định. Vì thế, Anh cần thêm thông tin về Con Người từ Đức Giê-su: “Thưa Ngài Đấng
ấy là ai để tôi tin vào Người?” (9,36). Câu trả lời của Đức Giê-su: “Anh đã thấy
Người, người đang nói với anh là Người ấy” (9,37) như lấp đầy mọi băn khoăn trước
đó của Anh.
Những thuật ngữ trọng
tâm ki-tô học trong Tin Mừng thứ tư được kết hợp chặt chẽ với nhau. Không ai có
thể thấy Thiên Chúa và biết Thiên Chúa (1,18; 5,37), trừ khi Đức Giê-su mạc khải
điều Người đã thấy (1,34; 3,11; 5,37; 8,38). Người nói điều người đã thấy nơi
Cha (6,46; 8,38). Ai tin vào Đức Giê-su sẽ thấy (1,50-51) còn ai không tin thì
sẽ bị luận phạt (3,36; 5,37-38; 6,36). Mạc khải tột đỉnh sẽ được diễn ra khi những
người tin nhìn lên Con Người “được giương cao” để lãnh nhận sự sống đời đời
(3,13-15). Đức Giê-su thử thách “Anh mù đã sáng mắt” nhận ra rằng Thiên Chúa tỏ
lộ chính mình cho Anh qua Con Người (Jesus is challenging the man to recognize
that God is made known to him in the Son of Man).[i]
Có
một điều nghịch lý rằng những người Do thái trục xuất anh khỏi đền thờ; còn
Chúa của đền thờ lại tìm thấy anh. Điều này minh chứng cho những điều Người đã
nói trước đó: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều đã và đang đến với
tôi, và ai đến với tôi, tôi đã không loại ra ngoài” (6,37).[ii] “Họ”
thì “trục xuất” Anh còn Đức Giê-su “không loại ra ngoài”. Sự chủ động mạc khải
của Đức Giê-su đã giúp Anh hoàn tất tiến trình “rửa ở Hồ Si-lô-am (Đấng được
sai phái), trở về” qua lời tuyên xưng niềm tin rất mạnh mẽ: “Tôi Tin, thưa
Ngài” và “bái lạy Người” (9,38). Trong Tin Mừng thứ tư, tin vào Đức Giê-su có
nghĩa là có sự sống đời đời (Xc. 3,15.16.36; 6,40.47).
Hành
động “bái lạy”, “thờ lạy” là hành động chỉ dành cho Thiên Chúa (St 17,3) và tác
giả Tin Mừng thứ tư dùng chính động từ này proskynein trong 4,20-24 để diễn tả
sự tôn thờ đối với Thiên Chúa. Hành động bái lạy Đức Giê-su không phải là bất
thường trong Tin Mừng Nhất Lãm, đặc biệt là trong Mát-thêu, nhưng trong Tin Mừng
thứ tư chỉ xảy ra một lần duy nhất ở đây.[iii] Anh
không chỉ tin vào Đức Giê-su là là Đấng được sai đến, mà còn bái lạy Người như
là Thiên Chúa của Anh.
Tiến trình tìm kiếm
đức tin của “Anh mù đã sáng mắt” có thể được tóm gọn lại như sau: bị bạn bè và
láng giềng nghi ngờ (9,8-12) ð bị cha mẹ “bỏ rơi” (9,18-23) ð Bị những người
Pha-ri-sêu và những người Do thái chất vấn, lăng mạ, trục xuất (9,13-17.24-34);
thế nhưng Anh vẫn một mình tiến bước trong tiến trình tìm kiếm Đức Giê-su từ hiểu
biết đơn sơ “một người tên là Giê-su” (9,11) ð “một ngôn sứ”
(9,17) ð “người đến từ
Thiên Chúa” (9,33) ð
cuối cùng “Tôi tin” (9,38) vào Con Người, Đấng được Cha sai đến (Si-lô-am). Thực
ra, chính Đức Giê-su vừa là người khởi đầu vừa là người kết thúc câu chuyện, kết
thúc tiến trình mạc khải về chính Người.
Ba câu cuối như là
đoạn kết của dấu lạ chữa lành. Từ đầu chương 9 Đức Giê-su chưa từng nói với
nhóm Pha-ri-sêu, chỉ trong 3 câu cuối này Đức Giê-su trực tiếp tranh luận với họ.
Đức
Giê-su nói: “Tôi đến thế gian đến thế gian này để phân định [iv],
để những người không thấy được thấy và những người thấy lại trở nên những người
mù” (9,39). Danh từ “phân định” hay “biện
phân” có cùng gốc với động từ nên cũng có nghĩa là xét xử, xét đoán, hay kết án
như động từ. Tuy nhiên, theo tác giả Lê Minh Thông, thì những ý nghĩa này không
phù hợp với mạch văn Ga 9:
“Quả
thế, lời Đức Giê-su ở Ga 9,39 liên quan đến anh mù được chữa lành đã tin vào Đức
Giê-su (9,38), đồng thời liên quan đến những người Pha-ri-sêu không tin. Mệnh đề:
“cho người không thấy được thấy (9,39b) ám chỉ đến anh mù đã thấy và đã tin; mệnh
đề: “những người thấy lại trở nên những người mù” ám chỉ những người Pha-ri-sêu
(9,40-41). Nếu hiểu là “để xét xử” thì không hợp lý, vì Đức Giê-su không xét xử
anh mù từ thuở mới sinh, ngược lại Người đã làm cho anh ta được thấy và tin vào
Người.”[v]
Câu
chuyện “dấu lạ chữa lành” giờ đây không còn là chuyện riêng của anh mù nữa
nhưng là chuyện của nhiều người. Đức Giê-su đã phân định giữa hai nhóm: nhóm
“những người không thấy được thấy” bao gồm “Anh mù đã sáng mắt” và cộng đoàn
người tin và nhóm “những người thấy lại trở nên những người mù” bao gồm “những
người Pha-ri-sêu”. Đức Giê-su đã phân định và cho thấy một sự thật trớ trêu đến
phủ phàng, làm cho “những người Pha-ri-sêu” phải chột dạ: “Không chừng chúng
tôi là những người mù sao?” (9,40). Họ là “những người mù” bởi dẫu cho họ sáng
mắt nhưng họ không muốn nhìn, không muốn thấy. “Không ai mù loà bằng người từ
chối nhìn thấy”. Còn anh mù dẫu khởi đầu “không thấy” nhưng nghe theo lời mời gọi
của Đức Giê-su cuối cùng anh đã thấy. Anh đã trải qua quá trình từ sáng mắt thể
lý đến sáng mắt đức tin. Anh là một mẫu hình lý tưởng cho thần học sâu xa mà việc
cứu chữa Anh là một dấu chỉ. Đức Giê-su là thực là “ánh sáng thế gian” (9,5) đã
mang đến ánh sáng thể lý qua đó mang đến ánh sáng đức tin cho Anh.[vi]
Thoạt nghe câu kết
luận của Đức Giê-su: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ
đây các ông nói rằng: "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn
" (9,41), người đọc không khỏi ngạc nhiên vì đang nói về “mù” và “thấy”
thì Đức Giê-su lại kết luận là “chẳng có tội” và “tội vẫn còn”. Tuy nhiên, suy
cho kỹ thì đó là điều hợp lý. Nếu nhìn nhận mình là “những người mù” thì đương
nhiên “không nhìn thấy” là chuyện đương nhiên và “chẳng có tội”. Tuy nhiên,
khăng khăng “chúng tôi thấy” nhưng “chẳng thấy” lại có tội. Như đã nói trên
“không ai mù loà bằng người từ chối nhìn thấy”. Tội của họ chính la tội cố chấp,
có khả năng nhìn mà không muốn nhìn, ngay trong nhóm họ cũng đã có một số người
tự hỏi: “Làm sao một người tội lỗi có thể làm được những dấu lạ như thế?”
(9,16) nhưng đến cuối cùng “Họ” vẫn không muốn thấy và “tội của họ vẫn còn”. Tội
này là tội gì? tác giả Lê Minh Thông lý giải như sau:
“Trong Tin Mừng thứ
tư chỉ có một tội duy nhất: đó là tội không tin vào Đức Giê-su. Có thể nói, đây
là “tội thần học”, tội không đón nhận mạc khải của Thiên Chúa qua lời rao giảng
của Đức Giê-su. Sâu xa hơn, tội theo Tin Mừng thứ tư là lựa chọn đứng về phía
quỷ, thuộc về và làm công việc của quỷ (8,44). Đây là tội dẫn đến sự hư mất, dẫn
đến sự chết đích thực như Đức Giê-su đã nói với “những người Do thái”: “Các ông
sẽ chết trong tội của các ông. Vì nếu các ông không tin rằng Tôi Là các ông sẽ
chết trong tội của các ông” (8,24).[vii]
Chương 9 khép lại với một sự phận định rõ
rệt giữa hai nhóm người. Lẽ dĩ nhiên, Đức Giê-su không có ý định phân định giữa
hai nhóm người này. Người đến không phải để lên án thế gian nhưng để cứu nó
(3,17). Tuy nhiên, sự hiện diện của Người giữa thế gian đã bao hàm một một sự
phân định bởi mỗi người sẽ có sự chọn lựa hoặc là chống ại Người hoặc là chấp
nhận Người. Việc Đức Giê-su đến dẫn đến một số được cứu và một số sa ngã. Theo
nghĩa này chúng ta sẽ rơi vào một trong hai trường hợp. Một mặt những người có
tâm hồn khiêm hạ, nhìn nhận lỗi lầm của mình và đến cùng Giê-su để tìm ơn tha
thứ sẽ nhận được “ánh sáng của Người”; mặt khác những người cảm thấy thỏa mãn với
chính mình không cần đến Đức Ki-tô sẽ bị mù lòa và tội vẫn còn.[viii]
1.
Chiến thắng của ánh sáng trên bóng tối. Điều này
minh chứng cho những gì Đức Giê-su đã tuyên bố “tôi là ánh sáng thế gian”
(8,12; 9,5). Qua việc chữa lành Anh mù từ thuở mới sinh Đức Giê-su cho thấy
quyền năng của Thiên Chúa tỏ hiện trên những nghịch cảnh. Đức Giê-su đã thực sự
chiến thắng bóng tối trần gian. Người không chỉ chiếu sáng đôi mắt người mù
nhưng còn chiếu sáng cõi lòng người tin và đem lại cho một sự sống mới, sự sống
đời đời khi tin vào Người. Đức Giê-su là ánh sáng cho thế gian (9,5). Người đến
trong thế gian nhằm mục đích là đem ánh sáng cho những người mù lòa. Đó cũng
chính là bổn phận của Người và của các môn đe: “làm công việc của Chúa Cha,
Đấng đã sai Người” (9,4).
2.
Đức Giê-su đã mang đến một cái nhìn mới mẽ trước những
nghịch cảnh, khổ đau, bệnh tật thể lý của con người. Người Do
thái, kể cả các môn đệ, quan niệm đau khổ bệnh tật là hậu quả của những lỗi lầm
hoặc là của chính cá nhân hoặc của cha mẹ, hoặc của nhiều thế hệ trước đó. Đức
Giê-su không đồng tình với quan niệm của họ. Vì thế, Người mặc cho đau khổ một
giá trị rất tích cực, một ý nghĩa tốt đẹp. Đó không hẳn là do tội của ai cả
nhưng là để “công trình của Thiên Chúa được thực hiện”. Lối nhìn này vừa giải
thoát những người đau yếu, bất hạnh khỏi những mạc cảm tự ty vốn có, vừa làm
cho họ có cơ hội để cộng tác vào công trình của Thiên Chúa.
3.
Mở mắt thể lý, mở mắt đức tin. Ánh sáng mà
Đức Giê-su mang lại không chỉ là ánh sáng vật lý. Người không chỉ mở mắt thể lý
cho người mù nhưng quan trọng hơn là mở mắt đức tin, giúp cho anh tin vào “Đấng
được sai đến” để được sự sống đời đời. Vấn đề không còn là chuyện nhìn thấy hay
không nhìn thấy nhưng là chuyện sống và chết. Dấu lạ “mở mắt người mù từ thuở
mới sinh” là chỉ là bước đầu để dẫn anh mù đến với Đức Giê-su và tuyên xưng đức
tin vào Người. Tiến trình ấy do Đức
Giê-su khởi xướng nhưng nó có hoàn tất tốt đẹp hay không cũng phải nhờ vào sự
cộng tác dấn thân của Anh mù. Thực tế, sau khi được chữa lành đôi mắt thể lý
Anh đã phải trải qua quá trình thử luyện biểu lộ bằng những giải thích với
những người xóm giềng, tranh luận với giáo quyền Do thái. Anh đã chịu nhiều
thách đố từ bị mắng chửi, xỉ vả cho đến bị trục xuất. Trải qua quá trình ấy Anh
ngày càng kiên định hơn trong lập trường của mình về nguồn gốc của Đức Giê-su
và đã được ơn đón nhận đức tin.
4.
Đức Giê-su là Đấng Cha sai đến. Cuộc tranh
luận dựa trên sự kiện Đức Giê-su chữa bệnh trong ngày Sa-bát để đi đến kết luận
Người có phải Đấng đến từ Thiên Chúa hay không. Nhóm “Họ” từ đầu đến cuối nhất
quyết phủ nhận nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su; trong khi đó Anh mù, đại
diện cho cộng đoàn người tin thì từ từ khám phá đến nhìn nhận “Đức Giê-su đến
từ Thiên Chúa”. Thật ra, chính Đức Giê-su đã thừa nhận nguồn gốc Thiên Sai của
Người khi nói rằng: “Chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai Thầy” (9,4).
Ngoài ra, tác giả cũng ghi chú Hồ Si-lô-am có nghĩa là “người được sai phái”
ngụ ý rằng Anh mù chỉ có rửa trong Đức Giê-su thì mới được sáng cả thể lý lẫn
tinh thần.
5.
Câu chuyện của “Anh mù đã sáng mắt” tuyên xưng đức tin vào
Đức Giê-su không phải chỉ là câu chuyện của riêng Anh nhưng là câu chuyện của
cộng đoàn những người tin cuối thế kỷ thứ nhất. Anh mù
chính là hình ảnh sống động của cộng đoàn người tin đang tranh luận với lãnh
đạo Do thái về niềm tin của mình. Họ đã sống đức tin của mình và phải chịu hậu
quả là trở thành những người bị trục xuất ra khỏi hội đường. Một số người tin
không chịu nỗi áp lực của giáo quyền Do thái đến nỗi không dám tuyên xưng hay
bàn luận gì về Đức Giê-su, như trường hợp của cha mẹ Anh mù. Đó không chỉ là
tình trạng của công đoàn Gioan cuối thế kỷ thứ nhất mà còn là tình trạng của
cộng đoàn những người tin tin qua mọi thời đại. Họ luôn đứng trước chọn lựa
bóng tối và ánh sáng và lâm vào những nguy cơ “bị trục xuất”, ngược đãi, thậm
chí giết chết. Họ phải luôn can đảm để tiếp tục kiên định với chọn lựa đức tin
của mình trước những gian nan thử thách.
6.
“Đức Giê-su đến thế gian này để phân định”. Sự hiện diện
của Người trong thế gian bao hàm một sự phân chia giữa những người “mù” về thể
lý, yếu đuối về tinh thần nhưng biết đón nhận, tuyên xưng đức tin vào Người sẽ
trở thàng những người “được thấy”. Ngược lại những người tự phụ, cho rằng mình
“chúng tôi thấy”, không cần đón nhận ánh sáng từ Đấng là ánh sáng, không chấp
nhận Người thì sẽ vẫn mang tội nơi mình.
7.
Cuối cùng,
tác giả R.E. Brown còn mặc cho dấu lạ này một ý nghĩa liên quan đến Phép Rửa. Ong trích dẫn một tài liệu của tác
giả Braun (Braun, Jean Théol, I, pp.149ff.) cho thấy rằng câu chuyện của Anh mù
từ thuở mới sinh xuất hiện bảy lần trong các tác phẩm nghệ thuật trong hang
toại đạo, hầu hết thường minh họa cho Phép Rửa Ki-tô giáo. Chương 9 được dùng
như bài đọc chuẩn bị hoán cải để lãnh nhận Phép Rửa. Brown nói rằng: “Việc Giáo
Hội tìm thấy nơi dấu lạ chữa lành anh mù một bài học về Phép Rửa là không thể
nghi ngờ” (There is no dout that the Church found a baptismal lesson in the
healing of the blind man).[ix]
KẾT LUẬN
Trình thuật về dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh
quả là một bản văn đặc sắc. Qua lối diễn tả sinh động, cách dùng từ khéo léo,
tác giả đã dẫn người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Từng tình tiết đều
mang một ý nghĩa nhất định và sự nối kết của tất cả các tình tiết làm nên một
câu chuyện mang đậm nét thần học Gioan.
Cũng như câu chuyện Đức Giê-su ở Sa-ma-ri (4,1-42), từ nước
uống bình thường, Đức Giê-su mạc khải một loại nước trường sinh; trong câu
chuyện này, từ dấu lạ chữa lành bệnh mù thể lý, Đức Giê-su đã chữa lành con tim
của Anh mù từ thuở mới sinh. Từ việc “đi, rửa ở hồ Si-lô-am” tác giả đã ngụ ý
đến một tiến trình “đi, rửa” trong Đấng được sai phái. Đây là một tiến trình
gian nan, khốn khó, nhiều khi phải trả giá bằng việc bị “trục xuất” khỏi hội
đường. Tiến trình này đòi hỏi một sự can đảm, kiên định, xác tín bảo vệ kinh
nghiệm bản thân “người ấy đã mở mắt tôi”. Kinh nghiệm ấy luôn nuôi dưỡng ý chí
tìm kiếm Chúa trong lòng Anh mù, dẫu rằng Anh chưa từng thấy Người để rồi được
toại nguyện. Tuy vậy, đừng tưởng rằng với những cố gắng tìm kiếm của bản thân
thì sẽ được gặp “Con Người”. Nếu “Con Người” không chủ động, không khởi xướng, không tỏ lộ thì Anh mù sẽ mãi chẳng
bao giờ gặp được Người. Cũng giống như “tiến trình-hai giai đoạn” chữa lành đôi
mắt thể lý vậy: Đức Giê-su nhổ xuống đất, làm thành bùn, xức vào mắt, anh mù
đi, rửa ở hồ Si-lô-am, trở về thi thấy được; Việc đón nhận đức tin của Anh cũng
được Đức Giê-su khởi xướng bằng dấu lạ chữa lành và hoàn tất, nhưng nếu Anh
không cộng tác vào tiến trình “tranh luận”, tìm kiếm thì Anh sẽ chẳng có giai
đoạn tuyên xưng đức tin vào Người.
Câu chuyện
chữa lành người mù từ thuở mới sinh không phải là câu chuyện của cá nhân Anh mù
nữa nhưng là câu chuyện của cả cộng đoàn người tin. Cuộc tranh luận của “Anh mù
đã sáng mắt” với “Họ” là cuộc tranh luận mang đậm nét ki-tô học của cộng đoàn
người tin và nhóm chưa tin hay không tin. Câu chuyện không còn đơn thuần là
bóng tối và ánh sáng/ mù lòa và sáng suốt bệnh tật hay khỏe mạnh, nhưng là tin
hay không tin dẫn đến sống hay chết. “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời
đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy" (3,36). Dấu lạ chữa lành anh
mù từ thuở mới sinh là một dấu chỉ dẫn đến niềm tin cho Anh mù. Và toàn bộ câu
chuyện này là một dấu chỉ cho đọc giả qua mọi thời đại nhận ra và tin vào Đức
Giê-su. bất cứ ai tin vào Người thì dù có mù cũng nhìn thấy được, còn ai không
tin thì dù có nhìn thấy cũng trở nên mù lòa.
SÁCH THAM KHẢO
Bergant,
Diannane & Karris, Robert J., The
Collegeville Bible Commentary. Minnesota: Liturgy Press, 1992.
Brown,
Raymond E., An Introduction to the New
Testament. New York: Doubleday, 1996.
________________.,
The Gospel According to John I-XII
& XIII-XXIV. New York: Doubleday, 1966.
Kinh Thánh Tân Ước, bản dịch của nhóm CGKPV. Hà nội:
Tôn Giáo, 2008.
Lê Minh
Thông, Bản văn Gio-an, Tin Mừng và Ba Thư
Hy lạp – Việt. Hà Nội: Tôn Giáo, 2011.
_____________, Đấng
Pa-rác-lê trong Tin Mừng thư tư. Hà Nội: Tôn Giáo, 2010.
_____________, Yêu và Ghét trong Tin Mừng Gio-an, phần I
& II. TpHCM: THVĐM, 2009.
Marchadour, Alain, L’Evangile de Jean.
Centurion: không rõ nhà xuất bản,1992 (Bản
Việt ngữ Tin Mừng Gioan, không rõ dịch giả và chi tiết xuất bản).
Moloney,
Francis J., The Gospel of John. Collegeville:
Liturgy Press, 1998.
Schnackenburg,
Rudolf, Jesus in the Gospel: A Biblical
Christology. Lousisville: 2005, (Bản Việt Ngữ Đức Giê-su trong Các Sách Tin
Mừng Ki-tô học Kinh Thánh, Nguyễn Luật Khoa và Phạm Thị Huy chuyển ngữ. Hà
nội: Tôn Giáo, 2009).
The Navarra Bibble:
Gospel & Acts,
Revised Standard Version with a Commentary by members of the Facculty of
Theology of the University of Navarre. Dublin: Scepter Publishers, 2000.
Traduction
œcumnique de la Bible (TOB).
Paris: Société Biblique Française, 2011.
[i] Xc. Francis J. Moloney, sđd., p. 296.
[ii] Động từ “loại ra” (evkba,llw) được chia ở thì aorist (diễn tả một
hành động đã xảy ra) ở đây cũng chính là động từ được dùng trong câu “họ đã trục xuất anh” (9,34).
[iii] Xc. Francis J. Moloney, sđd., p. 376.
[iv] Bản dịch của nhóm CGKPV là “xét
xử” trong khi đó bản dịch của tác giả Lê Minh Thông là “phân định”.
[v] Xc. Lê Minh Thông, Yêu Và Ghét trong Tin Mừng Gioan, phần II,
tr. 76.
[vi] Xc. Diannane Bergant &
Robert J. Karris, Sđd., p.997- 998.
[vii] Xc. Lê Minh Thông, Đấng Pa-rác-lê trong Tin Mừng thư tư (Hà
Nội: Tôn Giáo, 2010), tr. 239.
[viii] Xc. The Navarre Bible, p. 623.
[ix] Xc. Raymond E. Brown, The Gospel According to John I-XII, p. 380-381.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét