08/04/2015
Arnoldus Nota, tháng 4 năm 2015
Cha Heinz Kuluke và Ban Lãnh Đạo
(Duy Thiện chuyển ngữ)
“Từ Chấp Nhận Và Thấu Hiểu Sự Khác Biệt
Trong Môi Trường Liên Văn Hóa Đến Việc Làm Phong Phú Và Đa Dạng Lẫn Nhau”
Phần Mở đầu của Hiến Pháp Dòng Ngôi Lời
mở ra cho chúng ta viễn cảnh sau: “Trong tư thế là một cộng đoàn bao gồm những anh
em khác nhau về ngôn ngữ và dân tộc, chúng ta trở nên một dấu chỉ sống động cho
sự hiệp nhất và tính đa dạng lớn lao của Giáo hội”. Chúng ta biết rằng viễn tượng
này vừa là sự gợi hứng vừa là thách đố cho công việc và thực tế của đời sống cộng
đoàn chúng ta. Tổng Tu Nghị (TTN) lần thứ 17 năm 2012 của Hội dòng chúng ta đã
tập trung vào chủ đề: “Từ mọi Quốc gia, Dân tộc và Ngôn ngữ: Cùng chia sẻ Đời sống
và Sứ vụ Liên văn hóa”. Tu Nghị đã khẳng định: “Tính liên văn hóa là một hình ảnh
đặt trưng và là một đặc nét trong căn tính của chúng ta” (Tài liệu TTN, số 26).
Liên văn hóa ở đây không chỉ là chấp nhận nhau và dừng lại ở việc sống chung với
nhau nhưng còn là “nhấn mạnh và làm nổi bật hơn tiến trình giao thoa văn hóa ở
cả mức độ cá nhân lẫn xã hội” (Kisala, Verbum 2009, 335).
“Tư Tưởng Nhân Học Truyền Thống” Và Tính Liên Văn Hóa
Linh mục Wilhelm Schmidt, một nhà nhân
chủng học và ngôn ngữ học của Dòng Ngôi Lời, đã nỗ lực chỉ ra rằng người thượng
cổ đã có một ý niệm rõ ràng hơn bất cứ nền văn hóa nào ngày nay về một vị thần
minh tối cao. Cha Schmidt đã tận dụng các nhà truyền giáo Ngôi Lời (chẳng hạn
như cha Schebesta) để thu thập dữ liệu và thành lập tờ báo Anthropos vào năm
1906. Mặc dù lý thuyết về Văn Hóa Quyển (文化圏)
của cha đã bị lãng quên nhưng nhiều người ngày nay đã nhận ra rằng, các xã hội
truyền thống thường giúp giữ cho các cá nhân một niềm tin theo lòng đạo đức vào
một vị thượng đế nào đó. Cha Schmidt đã có một ảnh hưởng đáng kể lên cách thức
truyền giáo của Giáo hội Công giáo bằng cách cho thấy tầm quan trọng của việc
hiểu các tôn giáo và các nền văn hóa ngoài Châu Âu.
Thánh Arnold Janssen, bằng việc ủng hộ
những nỗ lực của cha Schmidt thông qua việc đào sâu học hỏi văn hóa, “đã nhận định
rõ rằng công trình của cha Schmidt sẽ được tiếp tục và trở thành một phần trong
căn tính của Dòng Ngôi Lời” (Mantovani, Verbum 41.4 (2000), 597). Nhân chủng học
đã trở thành một phần trong chương trình đào tạo của Dòng Ngôi Lời và nhờ thế
mà thái độ tôn trọng các nền văn hóa khác được đề cao. Việc nghiên cứu văn hóa
không lập tức đưa ra cho chúng ta những “mẫu số chung” nhưng là những dữ liệu
khoa học mà từ đó chúng có thể giúp các nhà truyền giáo rất nhiều trong suy tư
thần học và công việc mục vụ. Cha Schmidt cũng đã thành lập nên Viện Anthropos của
riêng Dòng Ngôi Lời chuyên nghiên cứu nhân chủng học và một bảo tàng viện về
dân tộc học tại nội thành Vatican.
Sự đề cao văn hóa này cần được chuyển từ
lý thuyết sang thực hành. Thánh Giuse Freinademetz, một mẫu gương gợi hứng cho
chúng ta, đã chỉ ra rằng để hình thành sự tôn trọng đối với các nên văn hóa
khác, chúng ta phải lột xác và thoát khỏi tính vị chủng tộc. Thánh nhân, theo
tinh thần trong thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Philiphê (Pl 4,8), đã chuyển từ
một người phê phán văn hóa Trung Hoa thành một người Trung Hoa từ trong máu và ngài
còn hy vọng khi được lên thiên đàng ngài vẫn sẽ là một người Trung Hoa.
Một ví dụ khác nữa đến từ gia đình
Arnoldus của chúng ta là Mẹ Theresia Messner, Bề trên Tổng quyền đầu tiên của Dòng
Nữ Tỳ Thánh Linh Truyền Giáo. Mẹ đã nói rằng: “Nếu chị em muốn trở thành những
nữ tu truyền giáo, chị em phải điều chỉnh tập quán và lối sống của mình theo
như người bản địa”. Trong cao điểm của Thế Chiến thứ nhất, khi các cộng đoàn có
sự qui tụ của các chị em đến từ các quốc gia mà hiện đang là kẻ thù của nhau
trên chiến tuyến, Mẹ Bề trên Messner, vào tháng Chín năm 1917, đã viết như sau:
“Chúng ta phải chu đáo trong việc đối xử với những chị em của chúng ta cũng như
những ai có quốc tịch khác chúng ta không phải để xúc phạm đến sự khác biệt giữa
các quốc gia qua những lời lẽ và xét đoán thiếu bác ái hay những chỉ trích cay
độc”. Mẹ đã nêu lên thực trạng nội tại trong cộng đoàn dòng tu và ngoại tại
trong mối quan hệ giữa người với người.
Trong suốt hơn mười lăm năm qua, phong
trào làm sống và mới lại truyền thống và đặc tính của Dòng Ngôi Lời đã đi sâu
vào việc nghiên cứu và trân trọng sự khác biệt văn hóa. Cha Cựu Bề trên Tổng
quyền, Anthony Pernia, đã khơi gợi lại “Truyền thống Nhân học” và mô tả nó như “thái
độ cởi mở và tôn trọng những nền văn hóa của các dân tộc khác nhau… qua đó sứ
điệp Tin Mừng không chỉ đơn thuần bộc lộ ở vẻ bề ngoài mà còn đi sâu vào chiều
kích đối thoại… qua đó nhà truyền giáo không chỉ chuẩn bị tinh thần để thay đổi
nhân loại nhưng còn biến đổi chính mình…” (Verbum 45.1 (2004), 34). Trên tinh
thần đó, sự phát triển gần đây đã dành nhiều quan tâm vào đặc tính liên văn hóa,
cụ thể là làm phong phú cho nhau và cùng nhau vượt qua các thách đố của việc sống
chung với các nền văn hóa, các quốc gia, các thế hệ và các giới v.v.
Hành Trình Liên Văn Hóa Của Anh Chị Em SVD và SSpS
Ngay từ những ngày đầu, Hội dòng của
chúng ta đã là một Hội dòng quốc tế. Sau Công Đồng Vatican II, chúng ta đã tiếp
thu một cách nhìn tích cực hơn về Thế giới và văn hóa nói chung và về những nền
văn hóa ngoài Châu Âu nói riêng. Những hạt giống thiện chí của tiến trình hội
nhập văn hóa đã được ươm trồng. Dòng Ngôi Lời và Dòng Nữ Tỳ Chúa Thánh Thần đã
nhấn mạnh đặc tính đó qua đời sống đa văn hóa. Giáo hội ngày càng nhận ra sự vươn
mình và lớn mạnh không ngừng của Giáo hội ở phía nam bán cầu và nhu cầu hợp tác
giữa các Giáo hội địa phương và Giáo hội hoàn vũ. Trong năm 1990, Indonesia đã
“soán ngôi” Đức để trở thành quốc gia có số thành viên đông nhất. Cũng trong
khoảng thời gian này, chúng ta đã nhận thấy sự cần thiết cũng như những vận hội
của việc chuyển dịch cơ cấu từ môi trường quốc tế và sống chung, từ cộng đoàn
đa văn hóa và thích nghi đơn thường sang môi trường liên văn hóa thông qua việc
làm phong phú lẫn nhau trong đời sống chung ấy. Một hội thảo về đề tài đời sống
liên văn hóa trong cộng đoàn đào tạo đã được vùng ASPAC tổ chức tại Úc Châu vào
năm 1994.
Một mặt, chúng ta có thể bắt đầu với “kế
hoạch tổng quát” những điều chúng ta đã và đang làm tốt trên phương diện đời sống
và sứ vụ liên văn hóa. Nhiều cộng đoàn dòng tu đã tìm đến kiểu mẫu về đời sống
liên văn hóa của SVD và SSpS mà học theo. Mặt khác, chúng ta cũng cần lên một
“kế hoạch cụ thể” cho những nơi mà những cá nhân và cộng đoàn của chúng ta chưa
trở thành “dấu chỉ sống động cho sự hiệp nhất và tính đa dạng lớn lao” trong
thái độ, cử chỉ và hành vi. Đặc tính liên văn hóa nổi lên như chủ đề chính của
TTN lần thứ 17 năm 2012 và dựa vào đó chúng ta phác thảo ra những kế hoạch “tổng
quát” và “cụ thể” cho mình.
Tổng Tu Nghị Và Phương Hướng Hoạt Động Cho Toàn Hội Dòng
Trong suốt hai năm chuẩn bị cho TTN lần
thứ 17, những dự thảo cho nhiều khía cạnh khác nhau của đặc tính liên văn hóa đã
được thảo luận ở cấp địa phương và đã được đúc kết về cho hội nghị trù bị Tu Nghị.
Nhiều đoạn phim cũng được thu tập từ khắp nơi trên thế giới để làm bằng chứng sống
động cho những gì chúng ta đang làm tốt. Phương hướng Hoạt động cho toàn Hội
dòng được TTN đề ra đã chỉ ra các bước hoạt động chi tiết cần có để phát triển
hơn nữa các mối quan hệ và sự năng động liên văn hóa trong chiều kích nội tại lẫn
ngoại tại. Chẳng hạn như, khi ý thức rằng “căng thẳng và mâu thuẫn nảy sinh giữa
các anh em tu sĩ vì lí do của sự khác biệt tuổi tác, chủng tộc, tính vị chủng tộc,
tính cách khác biệt và những định kiến”, TTN muốn “những cộng đoàn liên văn hóa
cần phải được xây dựng trong sự ý thức của mỗi thành viên, cần được các thành
viên phát triển một cách có hoạch định, cần được quan tâm kỹ lưỡng và cần được
chú ý nuôi dưỡng” (Tài liệu TTN, số 30).
Về phần mình, trong Tổng Công Hội đầu
tiên của họ năm 1987, các Giám tỉnh SSpS đã khẳng định rằng khả năng sống đời sống
liên văn hóa là điều không cần phải bàn cải gì trong đời sống của họ. Điều này
đã được đưa lên làm chủ đề của TTN lần thứ 13 của các chị vào năm 2008. “Chúng
ta là những cộng đoàn liên đới với nhau trong tinh thần liên văn hóa không phải
cho có lệ nhưng cho sứ vụ truyền giáo” (Direction, số 2). Các chị đã đào sâu tư
tưởng này trong TTN gần đây nhất vào năm 2014. “Chúng ta phải ý thức rõ và thẳng
thắn thừa nhận những mặt sáng và mặt tối của đời sống liên văn hóa cũng như việc
sống chung của các chị em giữa nhiều thế hệ. Chúng ta phải sẵn sàng mở lòng để liên
tục biến đổi bản thân bởi vì chúng ta gắn kết đời mình với sự phong phú và sự
hòa nhập” (Direction, phần 4). Các chị em SSpS của chúng ta cũng đã ứng dụng điều
trên trong chiều kích ngoại tại của họ khi làm việc với những người bị loại trừ
và những người bị gạt ra bên lề xã hội.
Hội Thảo Nemi về Nguồn Nhân Lực
Trong ý hướng của Tổng quyển, việc thực
hiện các Phương hướng Hoạt động của Hội dòng trong TTN năm 2012 đã đưa ra
“thông tin liên quan đến những những tài liệu thực tế sẵn có” (Tài liệu TTN, số
31). Một tháng sau TTN lần thứ 17, một nhóm nhỏ anh em Ngôi Lời bao gồm các
thành viên chủ chốt của Viện Anthropos đã làm thành một ủy ban chuyên trách và
đề nghị được nghiên cứu các dữ liệu trong lĩnh
vực liên văn hóa. Đề xuất này đã được Tổng quyền chấp thuận. Sau 18
tháng kể từ lúc khởi sự thu thập tài liệu, ủy ban đã nhóm họp trong thời gian một
tuần vào tháng Sáu năm 2014 để lên khung chương trình cho hội thảo về chủ đề
liên văn hóa trong các cộng đoàn Ngôi Lời địa phương. Hội đồng Tổng quyền đã chấp
thuận đề nghị của ủy ban xin được tài trợ cho một hội thảo đào tạo nhân lực
trong lĩnh vực liên văn hóa cho các cấp độ từ tỉnh dòng, miền dòng đến giáo điểm
truyền giáo. Hội thảo hai tuần đã được tổ chức tại Nemi vào trung tuần tháng
Giêng năm 2015 với xấp xỉ ba mươi thành viên Ngôi Lời (tính cả mười thành viên
của mạng lưới quốc tế hoạt động cho Viện Anthropos) đến từ các vùng. Năm nữ tu
SSpS cũng tham dự hội thảo. Theo tinh thần đã nói ở trên, hành trình liên văn
hóa đều được cả hai hội dòng cùng nhau chia sẻ.
Biển Đổi Theo Đặc Tính Liên Văn Hóa
Một trong những ý tưởng được đề xuất tại
hội thảo Nemi vừa rồi là quá trình chuyển đổi từ óc vị chủng sang tinh thần
liên văn hóa lẫn nhau. Điều đó đòi hỏi một tiến trình dài cho “cuộc trở lại thứ
hai”. Trong khi “cuộc trở lại đầu tiên” là sự hoán cải từ bỏ cái tôi mà quay về
với cuộc sống lấy Đức Kitô làm tâm điểm, thì “cuộc trở lại thứ hai” là sự hoán
cải từ não trạng vị chủng tộc sang nhận thức Thiên Chúa còn trổi vượt trên cả
văn hóa hay quốc gia. Thánh Phêrô đã trải qua lần rửa tội thứ hai này khi ngài
nhận ra rằng “Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10,34). Sau khi chia sẻ
Tin Mừng với ông Conêliô và gia nhân của ông, thánh Phêrô đã bị chỉ trích vì đã
vi phạm truyền thống và bị chất vấn: “Ông đã vào nhà của những kẻ không cắt bì
và ăn uống với họ?” (Cv 11,3). Sau đó, Công Đồng Giêrusalem, đại diện cho cộng
đoàn tín hữu và toàn Giáo hội đã nêu lên vấn đề của “cuộc trở lại thứ hai”. Đại
diện cho các tông đồ, thánh Giacôbê đã xác tín rằng Chúa đã đoái thương chọn
trong các dân ngoại một dân mang danh Người (x. Cv 15,14). Cuộc trở lại trong
tinh thần canh tân này do thánh Phêrô và cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi khởi sự
đã mở cho Giáo hội con đường tháp nhập cách xứng hợp và trọn vẹn vào chương
trình cứu độ phổ quát của Thiên Chúa.
Tính liên văn hóa là trung tâm điểm
trong di sản của đại gia đình Arnoldus do thế hệ sáng lập mà cha Schmidt,
Janssen, Freinademetz và Mẹ Messner để lại. Hay nói cách khác, chúng ta có thể
xem đây như chiều kích đặc trưng thứ năm trong đời sống và sứ vụ Ngôi Lời. Đặc
tính này giữ vị trí trung tâm trong sự tham gia của chúng ta vào chương trình của
Thiên Chúa trong thế giới ngày nay, một thế giới đang khát khao sự hòa giải bằng
nhịp cầu yêu thương qua lại, chứ không không phải những rào cản ngày càng cao.
Chính chúng ta phải là những người tạo ra những cơ hội phát triển khả năng thấu
hiểu và đón nhận sự khác biệt trong môi trường liên văn hóa và đặc biệt phải tận
dụng những vốn liếng từ những anh em đã tham dự hội thảo đào tạo nhân lực tại
Nemi vừa qua.
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét