được viết bằng thứ tiếng nào?
Vì được ghi lại ở nhiều nơi khác nhau, nên Kinh Thánh được viết ít nhất là bằng ba thứ tiếng. Phần lớn nhất của sách Cựu Ước được viết bằng tiếng Híp-ri. Thứ tiếng này là ngôn ngữ được nói tại Pa-lét-tin trước khi dân Do-thái bị đi lưu đày ở Ba-by-lon (597,587,582 trước Chúa Giáng Sinh).
Sau thời lưu đày, dân Do-thái bắt đầu nói tiếng A-ram, nhưng Kinh Thánh vẫn được viết, chép lại và đọc tiếp bằng tiếng Híp-ri. Cũng từ đó mà có nhiều người không còn hiểu được Sách Thánh, vì ngôn ngữ đã trở nên bất đồng.
Để giúp cho các tín hữu hiểu được Kinh Thánh, người ta đã lập ra các "lớp học" tại mỗi cộng đoàn và mỗi địa phương. Đức Giê-su hẳn cũng đã học ở một trường như vậy tại Na-da-rét, để biết tiếng Híp-ri nhằm có thể hiểu Kinh Thánh.
Sách Tân Ước và một phần nhỏ của Cựu Ước, là sách Khôn Ngoan, được viết bằng tiếng Hy-lạp. Đây là thứ ngôn ngữ thương mại mới, được phổ biến ở những vùng mà Alexander Cả (336-323), vua của Mazedonien, chinh phục trong thế kỷ thứ 4 trước Chúa Giáng Sinh.
Vào thời Chúa Giê-su, dân Do-thái nói tiếng A-ram trong gia đình, dùng tiếng Hi-bri khi đọc Kinh Thánh, tiếng Hy-lạp trong chính trị và giao dịch thương mại. Trong thời điểm này sách Tân Ước chưa được viết, mà chỉ có sách Cựu Ước mà thôi. Tân Ước lúc đó được sống và chuẩn bị tại Na-da-rét - trong Đức Giê-su.
Những người Do-thái không sống tại Pa-lét-tin mà đã di dân sang Ai-cập sau thời lưu đày tại Ba-by-lon, đã quên dần tiếng mẹ đẻ sau một thời gian sống ở đó. Họ không còn hiểu được tiếng A-ram và Híp-ri nữa, mà chỉ hiểu tiếng Hy-lạp - thứ tiếng phổ biến từ Hy-lạp tới Ai-cập vào thời đó.
Vì vậy, vào thế kỷ thứ 3 sau Chúa Giáng Sinh, một nhóm người Do-thái đã quyết định dịch Kinh Thánh Cựu Ước từ tiếng Híp-ri sang tiếng Hy-lạp. Đây là bản dịch Kinh Thánh đầu tiên và được gọi là Bản Bảy Mươi (LXX).
Theo truyền thuyết kể lại trong thư Aristeas, một bản văn có từ cuối thế kỷ thứ 2, thì theo yêu cầu của Vua Plolemaeus II. Philadelphus (284-247), Thượng Tế Eleasar đã gửi 72 Hiền sĩ thuộc 12 Dòng tộc Do-thái, mỗi dòng tộc 6 vị, từ Giê-ru-sa-lem đến Alexanria, để dịch bộ Ngũ Kinh của Môi-sê từ tiếng Híp-ri sang tiếng Hy-lạp.
Trên đảo Pharos, mỗi vị đã dịch riêng bộ luật rồi so sánh với nhau. Họ đã hoàn thành công việc này sau 72 ngày. Bản dịch đó đã được chính thức long trọng công nhận và xử dụng trong cộng đoàn Do- thái tại Alexandrien. Số 72 được làm tròn thành bảy mươi, tiếng La-tinh gọi là Septuaginta (LXX).
Sau khi Chúa Giê-su sống lại, các môn đệ của Người kéo đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc nói tiếng Hy-lạp thời đó. Họ đã dùng Bản Bảy Mươi và qua đó đã phổ biến nó ở những nơi mà họ đến.
Trong khi thực hiện việc dịch bản Bảy Mươi, thì danh sách (Kanon = Quy điển) của những cuốn sách thuộc về Kinh Thánh chưa được hoàn chỉnh. Vì thế mà Kinh Thánh bản tiếng Hy-lạp có một danh sách dài hơn là Kinh Thánh tiếng Híp-ri.
Sự khác biệt về số sách trong Kinh Thánh của Giáo Hội Công Giáo và Tin Lành, nằm trong sự khác biệt của Kinh Thánh theo bản Bảy Mươi và bản tiếng Híp-ri. Trong khi Giáo Hội Tin Lành giữ lại danh sách ngắn hơn của bản Híp-ri, thì Giáo Hội Công Giáo dùng bản Bảy Mươi với một số sách nhiều hơn - và như thế theo gương các Tông Đồ.
Tương đương sự khác biệt này, các ấn bản Kinh Thánh của Giáo Hội Tin Lành không có các sách sau đây: Tô-bi-a, Giu-đi-tha, Ba-rúc, Huấn ca, Khôn ngoan, 2 quyển Ma-ca-bê cũng như một vài phần sách Đa-ni-en và Ét-te. Những sách này vì thế được gọi là Thứ Kinh, nghĩa là chúng thuộc vào danh sách thứ hai.
nguyễnđứcvinhsvd ghi lại ■
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét