P.
Duy Thạch SVD
Chúa nhật trước Lễ
Chúa Giê-su Chịu Phép Rửa thường được gọi là Lễ Ba Vua hay là Lễ Hiển Linh. Đó
là ngày Lễ hết sức ý nghĩa cho mọi dân trên toàn thế giới, ngày Chúa tỏ mình ra
cho dân ngoại.
Trong tường thuật độc
nhất vô nhị của mình thánh Mát-thêu (2,1-12) ghi lại 3 cuộc tìm kiếm của ba
nhóm người khác nhau nhưng chỉ có duy nhất một sự gặp gỡ mà thôi.
1.
Cuộc tìm kiếm của Vua
Hê-rô-đê
Khi nghe các nhà
chiêm tinh hỏi về tung tích của vị vua Người Do Thái mới sinh ra, vua Hê-rô-đê
tá hoả tâm tinh, bối rối quá đỗi và toàn thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao rung
động. Sự kinh ngạc hoà lẫn sự sợ hãi cho một quyền lực sắp lung lay, sụp đổ.
Đó là có thể là một
tin mừng đối với các nhà chiêm tinh nhưng lại là một hung tin cho hoàn đế đương
nhiệm. Việc có một vị vua thừa kế mới sinh, nhưng lại không nằm trong hoàng tộc
của mình, làm cho vua Hê-rô-đê trở nên hoang mang thật sự.
Theo phản ứng tự vệ
tự nhiên, trước tiên ông cho mời tất cả các kinh sư và thượng tế trong dân lại
để hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu.
Sau đó, nhà vua đã bí
mật cho mời các nhà chiêm tinh đến và hỏi cặn kẽ ngày giờ ngôi sao xuất hiện,
và chỉ thị cho các nhà chiêm tinh phải dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và quan trọng
hơn là phải “báo lại cho tôi để tôi cùng
đến bái thờ Ngài”.
Đề nghị của nhà vua
nghe cũng rất bình thường nhưng trong đó lại ẩn chứa một âm mưu to lớn. Ông muốn
biết cặn kẽ về thời gian và nơi chốn của Hài Nhi Giê-su, Người mà ông đã nghe
biết đến trong dân như là một Đấng Ki-tô.
Ông nóng lòng quan
tâm đến nơi chốn và thời gian sinh ra của Hài Nhi, không phải vì sự hiếu kỳ,
không phải vì tò mò và càng không phải vì lòng yêu mến, ngưỡng mộ nhưng chỉ vì
quan tâm đến ngai vàng của mình.
Sự tìm kiếm của ông
chất chứa một sự ghen ghét và tranh chấp quyền lực. Lòng ông đang toan tính một
kế hoạch toàn vẹn nhằm trừ khử một Hài Nhi để bảo vệ ngai vàng của mình.
Chính vì những toan
tính xấu xa như thế nên chắc chắn ông sẽ không thể gặp được Hài Nhi Giê-su. Âm
mưu thất bại, tuy vậy, Hê-rô-đê vẫn cho thấy rằng mình là một vị vua quyền lực
và tàn ác như vua cha.
Ông sẵn sàng tàn
sát tất cả những trẻ thơ vô tội tại Bê-lem và vùng lân cận (khoanh vùng) từ hai
tuổi trở xuống (khoanh độ cả tuổi) với ý nghĩ may ra trong đó cũng có Hài Nhi
Giê-su.
Thế là quá rõ, âm
mưu dối trá của Hê-rô-đê đã bị chính ông lật tẩy. Nói là tìm Hài Nhi để bái thờ
nhưng thực chất là để thủ tiêu. Ông đã
không gặp được Ngài.
2.
Cuộc tìm kiếm của tất
cả thượng tế và kinh sư:
Trước tin tức một vị
vua mới sắp được sinh ra, toàn thể các thượng tế và kinh sư được triệu tập để
tham vấn về nơi sinh của Đấng Ki-tô. Rất chuyên nghiệp, họ dựa vào Thánh Kinh
và có thể nói ngay là Đấng ấy phải sinh:
"Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn
sứ, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải
là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân
Ta sẽ ra đời."
Bê-lem cũng được
Gioan nhìn nhận là nơi chôn nhau cắt rốn của Đấng Mê-si-a: “Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất
thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao? " (Ga 7,42).
Thật ra, thông tin
trên được các kinh sư và thượng tế chắp nối từ hai thông điệp của hai sách ngôn
sứ Mikha và Samuen quyển thứ hai: "Chính
ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo
Ít-ra-en." (2 Sm 5,2) và “Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha, ngươi nhỏ bé
nhất trong các thị tộc Giu-đa, từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng
thống lãnh Ít-ra-en” (Mk 5,1).
Truyền thống về sự
mong chờ một Đấng Mê-si-a đã tồn tại khá lâu trong dân Ít-ra-en kể từ khi ngôn
sứ Samuel tuyên sấm một vị vua sẽ nối nghiệp Đa-vít, vĩ đại hơn Đa-vít với triều
đại vững bền mãi mãi:
“Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm
xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do
chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền (2Sm 7,12).
Sau này, truyền thống
ấy được gia cố thêm bởi lời tuyên sấm của ngôn sứ Isaia với vua A-khát: “Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các
ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên
là Em-ma-nu-en” (Is 7,14).
Đó là niềm hy vọng
chung của Dân Chúa và hơn ai hết các kinh sư và thượng tế là những người nắm vững
những thông tin về sự xuất hiện của Đấng Mê-si-a mà họ đang mong chờ.
Hơn cả ngôi sao,
Thánh Kinh mới là cuốn kim chỉ nam dẫn đường đến với Đấng Mê-si-a. Thế nhưng,
thật ngạc nhiên là ngay thời điểm Đấng Mê-si-a sinh ra thì không ai trong số họ
mặn mà hỏi cặn kẽ về thông tin mà các nhà chiêm tinh đưa ra và làm lay động cả
thành Giê-ru-sa-lem.
Phải chăng tất cả
các kinh sư và thượng tế chỉ là những người nghiên cứu (research on) Sách Thánh,
họ nghiên cứu về nơi chốn xuất hiện của Đấng Mê-si-a, nhưng không thật sự mong
chờ hay tìm kiếm (search for) Đấng Mê-si-a? Hoặc giả Đấng Mê-si-a đã giáng trần
trong một cách thức bình thường, tại một nơi chốn quá nghèo hèn đến đỗi họ
không bận tâm để ý?
Tất cả đều là giả
thiết.
Có một điều rất chắc
chắn. Đó là tất cả các kinh sư và các thượng tế đã không gặp được Hài Nhi Giê-su.
Đó là dấu hiệu báo trước cho một thái độ chống đối và tấn công của các nhà lãnh
đạo Do thái đối với Đức Giê-su sau này.
3.
Cuộc tìm kiếm của
ba nhà thông thái
Xuất phát từ một
tâm tình tìm kiếm thật sự các nhà chiêm tinh (thông thái) đã rời bỏ quê hương,
xứ sở để theo ánh sao mà tìm cho được nơi xuất hiện của vị “Vua mới của người Do Thái”.
Đó là một cuộc tìm
kiếm nghiêm túc bởi hội đủ các yếu tố: Nghiên cứu, tìm hiểu, chuẩn bị lễ vật đầy
đủ và nhất là dấn thân cất bước đi, khi bị mất “dấu” lại không nản chí nhưng vẫn
tiếp tục miệt mài tìm kiếm.
Mát-thêu chỉ nói đến
các nhà chiêm tinh chứ không nói đến số lượng bao nhiêu người. Thế nhưng, sau
này truyền thống Giáo Hội Đông Phương cho rằng có ba đạo sĩ dựa theo số lượng lễ
vật mà họ mang theo và gọi họ là ba vua [Xc. Jacques Hervieux, bản Việt ngữ Tin Mừng Mác-cô, (Nguyên ngữ:
L’evangile De Matthieu,Centurion, 1991), tr.42].
Quả thế theo Tv
72,10-15: Hàng vương giả các nước đến dâng châu báu của sứ sở lên cho Đấng
Mê-si-a. Tuy nhiên, thực sự Mát-thêu không gọi họ là vua. Họ chỉ là những người
dân ngoại khiêm hạ, dựa theo những hiểu biết khoa học tự nhiên để đến với Đức
Giê-su.
Thuật ngữ “Magi”
(nhà chiêm tinh, khôn ngoan) nguyên gốc chỉ về một tầng lớp các đạo sỉ Ba Tư có
khả năng giải mộng rất tốt. Ở đây họ xuất hiện như những nhà chiêm tinh, người
có khả năng quan sát sự chuyển động của các vì sao mà biết được những dấu chỉ về
một sự kiện lớn nào đó.
Chi tiết họ đến từ
Phương Đông cùng với việc họ không biết nơi chốn Đấng Ki-tô sinh ra giả định rằng
họ thuộc dân ngoại. Họ đến từ Phương Đông nào? Điều này không rõ ràng.
Qua thuật ngữ
“Magi” có thể đoán là Ba-tư, những biệt tài về chiêm tinh cho thấy họ là người
Babylon và những lễ vật họ dâng cho thấy họ là người A-rập hay sa-mạc Sy-ri
(Xc. Daniel Harrington, The Gospel of
Mathew, p.42).
Nghĩa là những chi
tiết ấy quả thật không thể cho biết nguồn gốc rõ ràng về những người này. Có lẽ
điều có thể nói về nguồn gốc của họ như truyền thống Giáo Hội nhìn nhận ngày
nay là: họ là những người thuộc thành phần dân ngoại. Chính vì thế, người Hy Lạp
gọi Thánh Lễ Hiển Linh (Epiphanie) là lễ “Chúa tỏ hiện” (Théophanie), lễ kêu gọi
dân ngoại (Xc. Hồng Phúc, Chúa Giê-su,
Hà nội: Tôn giáo, 2011, tr.48).
Các nhà chiêm tinh
với những hiểu biết tự nhiên của họ, với sự tìm kiếm miệt mài, và bất chấp cả sự
nguy hiểm đến tính mạng, đã nhận được một kết quả mỹ mãn.
Họ đã gặp được
Chúa. Cuộc tìm kiếm của họ đã cho thấy họ đã lao tâm tổn lực đến mức nào và lễ
vật của họ dâng biểu lộ một lòng tôn kính mến yêu Đấng Mê-si-a làm sao. Họ xứng
đáng được hưởng niềm vui sướng, hân hoan của giây phút gặp gỡ Chúa nơi căn nhà
Bê-lem.
4.
Tạm kết
Như vậy, Thiên Chúa
vẫn tỏ mình ra cho hết tất cả mọi người. Trước hết là dân tộc Do thái qua việc tuyển
chọn, dẫn dắt họ, ban cho họ những mạc khải khá rõ ràng trong Thánh Kinh. Tuy
nhiên, điều đó không bảo đảm cho họ một sự gặp gỡ đương nhiên với Đấng Mê-si-a
mà họ mong chờ, khi họ không nhiệt tâm tìm kiếm Ngài.
Những kẻ tìm kiếm
Ngài theo một âm mưu gian ác kiểu vua Hê-rô-đê cũng sẽ không bao giờ đạt được một
kết cục khả quan. Ngược lại, những con người đơn sơ khiêm hạ không thuộc Dân
Thánh, không biết đến những mạc khải Thánh Kinh, nhưng với lòng yêu mến, khao
khát, dấn thân, tìm kiếm thật sự thì luôn luôn sẽ gặp Ngài.
Câu
chuyện Ba Vua tìm, gặp Chúa và hân hoan vui sướng dĩ nhiên không dừng lại ở đây
và không phải là chỉ là một câu chuyện quá khứ. Đó chỉ là một khúc dạo đầu cho
một bản hoà tấu ẩn chứa nhiều giai điệu “đảo phách” và “nghịch phách” phía sau
trong cuộc đời rao giảng công khai của Đức Giê-su, và qua mọi thời đại.
Mát-thêu
đã cho thấy Đức Giê-su ưu ái thế nào đối với dân tộc Ít-ra-en: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà
Ít-ra-en” (Mt 10,6); "Thầy chỉ
được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi” (Mt 15,24); "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném
cho lũ chó con” (Mt 15,26).
Thế
nhưng đến cuối cùng, chính những kinh sư, thượng tế và các luật sĩ, đại diện
cho dân tộc Do thái lại không tin vào Ngài dẫn đến. Ngay cả những môn đệ do Đức
Giê-su trực tiếp tuyển chọn và huấn luyện cũng có nhiều lúc nửa tin nửa ngờ.
Mát-thêu ghi lại khá nhiều lần Đức Giê-su tỏ ra khó hiểu đối với sự cứng lòng của
các môn đệ mình (Xc. Mt 6,30; 8,26; 14,31;16,18; 17,20).
Ngược
lại với thái độ cứng lòng của những người Ít-ra-en là thái độ tin tưởng một
cách tuyệt vời nơi dân ngoại. Đức Giê-su ắt hẳn không khỏi đau lòng trước sự cứng
lòng và dửng dưng của dân Ít-ra-en đối với sự viếng thăm của Ngài.
Tuy
nhiên, Ngài cũng có lý do để vui mừng khi nhìn thấy dân ngoại đón nhận Ngài và
được ơn cứu độ. Quả thế, trong câu chuyện Đức Giê-su chữa người đầy tớ của viên
đại đội trưởng, Ngài đã thừa nhận và tuyên bố: "Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có
lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương đông phương tây, nhiều người
sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời”
(Mt 8,10-11).
Tìm
Chúa, gặp Chúa và theo Chúa là một hồng ân Chúa ban và là một quá trình đáp trả
liên lỉ và kiên trì, một cuộc đời chứ không phải là một khoảnh khắc. Không phải
cứ mang “nhãn mác” ki-tô hữu là dĩ nhiên được vào Nước Trời.
Chính
vì thế mà Giáo Hội luôn nghiêm túc căn dặn con cái mình: “Những ai dù đã gia nhập Giáo Hội nhưng không kiên trì sống đức ái, nên
chỉ ở trong Giáo Hội theo “thể xác” chứ không phải với tâm hồn, thì vẫn không
được cứu độ. Tất cả những người con của Giáo Hội phải nhớ rằng địa vị cao trọng
họ có được không phải do công trạng riêng của mình, nhưng do ân sủng đặc biệt của
Đức Ki-tô, nếu không đáp lại ân sủng ấy bằng tư tưởng, lời nói và việc làm, thì
thay vì được cứu độ họ sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn” (LG, số 14).
Lễ Hiễn Linh 2012
◊
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét