XUÂN QUÝ TỴ 2013
Jos.Phạm
Duy Thạch SVD
Một
cách ngẫu nhiên khi đọc Tân Ước người ta không tìm đâu ra được một chữ xuân.
Ngược lại trong Cựu Ước người ta lại tìm thấy rất nhiều chữ xuân.
Tuy
nhiên, không phải tất cả những chữ xuân trong sách Cựu Ước đều có một sắc thái
ý nghĩa như nhau, chung quy lại có bốn lối diễn tả về chữ xuân như sau: (1) Mùa
Xuân; (2) tuồi Thanh Xuân; (3) Hoa Xuân; (4) Mưa Xuân.
Trong
thời khắc tiếc nuối thời gian năm cũ đang ngắn dần và niềm háo hức đón chào một
năm mới đang đến, thiết tưởng cũng nên có một vài gẫm suy về ý nghĩa của chữ
xuân trên nền tảng Lời Chúa.
Mùa
Xuân
Các bản văn Cựu Ước nhắc đến
danh từ khái niệm thời chỉ thời gian “Mùa xuân” đến năm lần và mỗi lần ấy gắn với
những sự kiện khác nhau của dân Ít-ra-en. Đa số các bản văn cho thấy mùa xuân
là thời gian thuận tiện để tiến hành một cuộc chiến.
Từ Mùa Xuân đầu tiên được nhắc đến trong sách ngôn sứ Samuel quyển thứ
2: “Lúc xuân về, thời mà các vua ra quân,
vua Đa-vít sai ông Giô-áp đi, cùng với các bề tôi của vua và toàn thể Ít-ra-en.
Họ giết hại con cái Am-mon và vây hãm Ráp-ba. Còn vua Đa-vít thì ở lại
Giê-ru-sa-lem” (2Sm11,1).
Đây là một mệnh đề thời gian
mở đầu cho một sự kiện không mấy tốt đẹp, nếu không muốn nói là rất đáng xấu hổ
trong cuộc đời Thánh Vương Đa-vít, một câu chuyện mà hầu hết những ai từng đọc
sách Cựu Ước không thể không nhớ đến nó.
Thánh vương Đa-vít đã phạm một
lỗi lầm nghiêm trọng nhất trong cuộc đời mình: “Giết người và cướp của". Đức Vua đã có lòng bất chính ăn nằm với
vợ Urigia, một vị tướng anh dũng và đầy nghĩa khí.
Chẳng những thế, để “chùi
mép” cho lần ăn vụng công khai của mình, Đức Vua đã không ngần ngại “giết người
diệt khẩu” bằng cách lập mưu giết hại vị tướng trung thành của mình.
Đó là một lỗi lầm nghiêm trọng
mà chính “tác giả” cũng thấy ghê tởm: “Có
ĐỨC CHÚA hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết!Nó phải đền gấp bốn con
chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót" (2Sm
12,5-6).
Lẽ dĩ nhiên “hành động của vua Đa-vít không đẹp lòng ĐỨC
CHÚA” và Đức Vua đã phải gánh chịu những hệ luỵ nghiêm trọng của lỗi lầm mà
mình gây ra (2 Sm 12,11-12).
Tuy nhiên, nếu nhìn một cách
tích cực dưới khía cạnh lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ thấy câu chuyện mùa
xuân năm ấy không hẳn chỉ nhuốm màu u ám của lỗi lầm và sự ác.
Thực vậy, chính người thừa kế
đầu tiên và vĩ đại nhất của thánh vương Đa-vít là vua Salomon, một vị vua mà sự
tài giỏi chỉ đứng sau Đấng Mê-si-a mà thôi (Xc. Mt 12,42), lại được khởi đi từ
lỗi lầm nghiêm trọng ấy.
Cả Salomon và vợ ông Urigia sau
này đều được thánh Mát-thêu kể vào trong số những tổ phụ và tổ mẫu trong gia phả
của chính Đức Giê-su (Xc. Mt 1,1-17).
Như vậy, có thể nói mùa xuân
năm ấy tuy khởi sự cho một lỗi lầm của một lỗi lầm nghiêm trọng đáng quên của một
thánh vương nhưng lại là một thời gian thuận tiện để Thiên Chúa tiếp tục thi ân
giáng phúc, tiếp tục công trình cứu độ của Ngài cho nhân thế.
“Mùa xuân” thứ hai được nói hai lần trong sách
các vua quyển thứ nhất: “Vị ngôn sứ đến gặp vua Ít-ra-en và thưa với vua :
"Mời vua đi ! Xin vua can đảm lên !
Xin cân nhắc và xem xét điều ngài phải thực hiện, vì mùa xuân tới vua A-ram sẽ
tấn công ngài." (1V 20,22); “Khi
mùa xuân tới, vua Ben Ha-đát kiểm tra người A-ram và tiến lên A-phếch giao chiến
với Ít-ra-en” (1V 20,26).
Hai từ “Mùa xuân” này được nhắc
đến trong bối cảnh Vua A-kháp đang bị quân A-ram vây hãm. Quân A-ram cho rằng Đức
Chúa của Ít-ra-en là thần núi nên nếu tấn công giữa đồng bằng thì chắc chắn sẽ
thắng.
Tuy nhiên, họ đã nhầm vì Đức Chúa đã chứng minh cho quân Aram thấy Ngài
là Thiên Chúa của cả đồng bằng lẫn đồi núi. Ngài bảo vệ dân bất cứ nơi nào,
trong bất cứ hoàn cảnh nào. (Xc. The
Navarre Bible, Joshua – Kings, p.503).
Như vậy, mùa xuân này cũng là
một mùa xuân đánh dấu việc Thiên Chúa thi ân giáng phúc cho dân, Ngài bảo vệ và
giải thoát hỏ khỏi tay quân A-ram.
“Mùa xuân” thứ ba được nói đến trong sách sử biên
niên quyển thứ nhất: “Lúc xuân về, thời
mà các vua ra quân, ông Giô-áp đưa lực lượng quân đội tàn phá đất đai của con
cái Am-mon. Ông tiến quân vây hãm Ráp-ba, còn vua Đa-vít ở lại Giê-ru-sa-lem.
Ông Giô-áp tấn công và triệt hạ Ráp-ba” (1Sb 20,1).
Đây là khoảng thời gian ông
Giô-áp tiến hành chiến dịch thứ hai đánh quân Amon và ông đã chiến thắng. Đây
là một phần trong đoạn nói về các cuộc chiến chống A-mon và Philitin. Các cuộc
chiến này được mô tả như một hồi nhấn mạnh đến phẩm chất phi thường của nhà
vua.
Trong cuộc chinh phục thủ đô
Amon, Ráp-ba, Đa-vít dường như lép vế hơn tướng Mo-áp về thao lược, nhưng lại nổi
bật như là vị vua thành kính khi chống lại tà thần và phá vỡ tượng thần Min-com
(2Sb 20,2).
Và trong cuộc chiến chống lại
những gã khổng lồ thì không phải một Da-vít can đảm chiến thắng Go-li-át nhưng
là một vị vua chững chạc thống trị những kẻ thù (2Sb 20,8). Thánh Augustine đã
mô tả Đa-vít như là một vi vua biết tin tưởng vào Chúa của mình, khỏi đầu cuộc
chiến và đánh bại tất cả các kẻ thù.
Với sự trợ giúp của Chúa, ông
cai trị toàn đế quốc của mình (St Augustine, Enarrationes in Psalmo, 131,3).
(Xc. The Navarre Bible, Chronicles –
Maccabees, p.78). Vậy là, mùa xuân thứ ba gắn liền với cuộc chiến chinh phục
người Amon va Philintine, nhưng nhấn mạnh nhiều hơn đến nhân đức trung thành của
vua Đa-vít.
Như vậy, cả ba “mùa xuân”
trên đều liên quan đến những cuộc chiến và mang đậm dấu ấn của bàn tay Thiên
Chúa can thiệp, trợ giúp con người, trong cuộc chiến chống lại ngoại bang cũng
như cuộc chiến chống lại tà thần và tội lỗi.
“Mùa xuân” thứ tư là mùa xuân duy nhất được
tìm thấy trong các tác phẩm văn chương khôn ngoan: “Ông ví như đoá hồng tươi nở giữa mùa xuân, như cây huệ mọc bên bờ nước,
tựa chồi non Li-băng giữa mùa hè” (Hc 50,8). Đây là một trong những câu mô
tả về Tư Tế Si-mon.
Thật ra, câu này trong nguyên
ngữ tiếng Hy lạp bản LXX thì không có chữ mùa xuân mà chỉ diễn tả những ngày
còn trẻ (en hêmêrais nêôn) và trong bản Tiếng Anh RSV (Revised Standard
Version) cũng không có chữ “mùa xuân” mà cũng chỉ là những ngày của hoa trái đầu
mùa (the days of the first fruits).
Đây là một trong mười một biểu
tượng tốt đẹp được dùng để diển tả những phẩm tính của tư tế Si-mon, một tư tế
thi hành chức vụ vào khoảng 219-196 BC.
Trong lời tán tụng dành cho
ông, các nhân đức gắn liền với những nhân đức của những cá nhân trước ông: sữa
chữa đền thờ (cc.1-2) mà Sa-lô-môn xây (47,3) và Zê-rúp-ba-ven, Giê-sua tái thiết
(49,11-12); tiến hành chương trình tái thiết và củng cố thành thánh (cc.3-4)
như vua Khít-ki-gia (48,17) và Nơ-khê-mia (49,13) đã làm trước đó; và trung
thành với truyền thống A-ha-ron (45,6-16) và Đa-vít (47,8-11), ông chú tâm đến
từng chi tiết nhỏ có thể làm cho phụng vụ nên lộng lẫy sốt sắng. (Xc. The Navarre Bible, Wisdom Books, p.546).
Những
bản văn khác liên quan đến chữ “xuân”
Ngoài những bản văn diễn tả
mùa xuân, Cựu Ước còn dùng nhiều cụm từ khác liên quan đến chữ xuân khác. Ví dụ
như “hoa xuân” (Kn 2,7); “mưa xuân” (Hs 6,3; G 29,23; Cn 16,15). Mưa xuân được
ví như hình ảnh của Đấng tạo hoá đến mang theo những điều kiện tốt đẹp cho đất
đai: “Người sẽ đến với chúng ta như mưa
rào, như mưa xuân tưới gội đất đai." Hoa xuân được gắn với những điều
tốt đẹp mà con người không nên bỏ phí trong cuộc đời này: “Nào, ta say rượu quý,Ta ngất hương thơm, những đoá hoa xuân, ta đừng bỏ
phí.”
Bên cạnh đó, còn rất nhiều bản
văn diễn tả về tuổi trẻ, thời kỳ sung mãn đẹp đẽ nhất của con người mà các bản
văn Tiếng Việt dịch là tuổi thanh xuân, thời kỳ thanh xuân hay tuổỉ xuân. Tuổi
thanh xuân được gắn với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Đó có thể là tuổi dành cho việc
cưới hỏi (Ml 2,14.15; Ge 1,8; Is 54,6); đó cũng có thể là tuổi tin tưởng cậy
trông vào Chúa (Tv 71,5); đó cũng có thể là tuổi được Thiên Chúa dạy dỗ (Tv
71,17); tuổi thanh xuân cũng là tuổi nên tưởng nhớ đến Chúa (Gv 12,1); đó cũng
có thể là tuổi lập giao ước (Ed 16,60); tuổi xuân cũng chính là thời gian nên
được vui hưởng và làm cho tâm hồn được hạnh phúc (Gv 11,9).
Vậy đó, tuổi xuân là tuổi gắn
liền với bao nhiêu điều tốt đẹp trong tương quan với Chúa, với chính mình và
cho tha nhân nữa. Tuổi xuân đáng để vui hưởng và làm cho mình được hạnh phúc
nhưng cũng gắn liền với những hậu quả mà
mình phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa sau này (Tv 11,9).
“Xuân”
trong “Tết” Việt
Truyền thống Công giáo Việt
nam dành ra 5 Thánh Lễ đặc biệt được gọi là Thánh Lễ theo truyền thống dân tộc
để xin những ơn đặc biệt cho năm mới:
(1) Thánh Lễ Tất Niên; (2)
Thánh Lễ Giao Thừa (Cầu Bình An Cho Năm Mới); (3) Mồng Một – Thánh Lễ Tân Niên
(4) Mồng Hai – Kính Nhớ Tổ Tiên và Ông
Bà Cha Mẹ (5) Mồng Ba – Thánh Hoá Công Ăn Việc Làm.
Trong mỗi Thánh Lễ, Giáo hội
tạ ơn và dâng lên Chúa những ý nguyện cầu khác nhau cho một năm mới đang bắt đầu.
Thánh Lễ tất niên là thời
gian để các tín hữu “họp nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và
xin Chúa thứ tha tội lỗi, để họ được thư thái bình an trước thềm năm mới”(Lời Nguyện Nhập Lễ).
Họ dâng “lễ vật để cảm tạ
và tôn vinh Danh Thánh vì mọi ơn lành Chúa đã thương ban” và cầu “xin cho lễ tế hôm nay trở nên nguồn sinh lực
hằng nâng đỡ mọi người trong những ngày tháng tới” (Lời Nguyện Tiến Lễ) và
“xin cho họ được đầy lòng tin yêu, để
sang năm mới chúng con thêm phấn khởi sẵn sàng phục vụ Chúa và tất cả mọi người”
(Lời Nguyện Hiệp Lễ).
Thánh Lễ Giao Thừa là thời khắc hướng tâm hồn lên Chúa như là “Ðấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng
đích vạn vật” và nguyện xin “Chúa
rộng ban cho họ một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để
tôn vinh Danh Thánh” (Lời Nguyện Nhập Lễ).
Trong Thánh Lễ Tân Niên các tín hữu “họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa” và “xin Chúa ban cho hết mọi người trong năm...
này được bình an mạnh khoẻ, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng
phúc lộc dồi dào” (Lời Nguyện Nhập Lễ).
Thánh Lễ cầu cho Tổ tiên và Ông bà cha mẹ, họ “dâng lên Chúa lễ vật đầu xuân này” để “xin Chúa vui lòng chấp nhận mà tuôn đổ hồng
ân xuống trên tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để chúng con cũng được thừa
hưởng phúc ấm của các ngài” (Lời Nguyện Tiến Lễ).
Đồng thời họ cũng xin Chúa “giúp
họ ngày nay sống sao cho tròn chữ hiếu đối với tổ tiên và ông bà cha mẹ, để mai
sau được cùng các ngài vui hưởng phúc trường sinh” (Lời Nguyện Hiệp Lễ).
Cuối cùng trong ngày Mồng ba tết, họ nhớ lại bổn phận chăm sóc
và gìn giữ vũ trụ mà Thiên Chúa đã trao cho mình và xin “cho được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của mình
trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp
chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa” (Lời Nguyện Nhập Lễ).
Những ghi nhận về phụng vụ Thánh Lễ dành cho những ngày đầu năm
mới cho thấy rất nhiều lời nguyện cầu, ao ước mà các tín hữu, cậy trông vào
Chúa. Vâng! Quả thật con người rất cần sự đỡ nâng phù trì của Thiên Chúa nhưng
Lời nguyện cầu dày đặc làm cho phụng vụ nhuốm màu vụ lợi chứ không còn là một
sự nối kết tình thân gia đình nữa.
May thay, trong kho tàng thánh ca Việt nam người ta còn tìm thấy
những âm sắc đẹp đẽ của lời “chúc mừng Ba
Ngôi phúc ân tình khắp nơi” (Ngày
Xuân Kính Chúa – Đỗ vị Hạ); “Mừng đón
Chúa xuân sang, Mai vàng khoe năm cánh” (Xuân Tạ Ơn – Trần Trần Thế); hay những tình cảm yêu thương trìu mến
của người con “Ngày đầu xuân, con dâng
lên Thiên Chúa chí tôn, lời cảm mến chúc khen Cha chí lành. Cảm tạ Chúa, Chúa
đã ban thêm một mùa xuân, mùa xuân sáng tươi hy vọng cho muôn người trên dương
gian” (Xuân Hy Vọng – Nguyên
Kha).
Đó có thể nói là nét đẹp rất riêng, mang âm hưởng văn hoá Việt
mà không thể tìm thấy trong lễ nghi Tây Phương.
Tạm kết
Dường như “mùa xuân” được nói
đến trong Thánh Kinh không mang đến âm hưởng vui tươi, hạnh phúc, sum vầy như
không khí phụng vụ những ngày đầu xuân của Giáo hội Việt Nam. Bỡi lẽ “mùa xuân”
trong Thánh Kinh thường gắn liền với các cuộc chiến.
Tuy nhiên, chính sự giải
thoát, sự can thiệp của Thiên Chúa trong các cuộc chiến của dân Chúa cũng như dấu
ấn chương trình cứu độ nơi câu chuyện lỗi lầm cua vua Đa-vít, đã cho thấy Thiên
Chúa luôn là chủ tể quyền năng của vạn vật và quan trọng hơn là Thiên Chúa yêu
thương dân Ngài.
Thiên Chúa là chủ của thời
gian, là khởi nguyên và tận cùng, và dĩ nhiên Ngài cũng là chủ của mùa xuân.
Mùa xuân có tươi đẹp, có mang lại cho cây cối xanh tươi nẩy lộc đâm chồi, có
mang đến cho con người sự ấm no hạnh phúc hay không đều nhờ bởi ơn Chúa.
Phụng vụ “Tết” của Giáo hội
Việt nam đã vui và cũng phù hợp với văn hoá Việt nam. Tuy nhiên, giá mà Thánh Lễ
và Thánh Ca làm sao cho các tín hữu nối kết thật sự với Thiên Chúa như một người
Cha trong một gia đình nhân loại.
Đối với các tín hữu, Thiên
Chúa vẫn còn là một người chủ kho ân phúc và ngự trên trời cao đâu đó, và họ phải
luôn ngước cổ, kêu cầu thì Ngài mới ban xuống muôn ơn cho. Ngài vẫn chưa được cảm
nhận hiện diện gần gũi và phát tiền lì xì cho con như những người cha thường
làm vào ngày đầu năm mới.
Ước
gì xuân năm nay, mọi người, mọi nhà cảm nhận được hơi ấm xuân nồng của tình Cha
đang luôn hiện diện bên họ. Ước gì biên cương của bầu khí thân thương ấm cúng
sum vầy của từng gia đình được mở rộng ra cho toàn thể gia đình nhân loại.
◊
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét