petloan@SVD
Quả vậy, như thánh
Phaolô đã nói: “Nếu
Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả
đức tin của anh em cũng trống rỗng… nếu Đức Ki-tô đã không sống lại, thì lòng
tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em”
(1Cr 15,14.17).
Chúng
ta tin vào sự Phục Sinh không chỉ vì một vài bằng chứng như ngôi mộ trống, lời
kể của mấy người phụ nữ hay chứng từ của các Tông Đồ, mà hơn thế nữa, vì những
chứng nhân đã dám liều mất mạng sống mình để nói với thế giới một sự thật rất
to, rất quan trọng rằng: Đức Giêsu Kitô, Vua các vua, Chúa các chúa và Chúa của
mỗi một người chúng ta đã sống lại!
Blaise
Pascal, một thiên tài toán học, đã nói rằng ông tin chắc chắn vào các Tông Đồ
vì họ dám đánh đổi mạng sống của mình cho sự thật họ rao giảng. Quả vậy, không
ai đi chết cho một điều mà mình biết rằng nó không thật. Không ai thí mạng sống
vì một người mà chính họ biết đó là tên bịt bợm.
Tuy
nhiên, chúng ta có thể tự hỏi “sự thật đó quan trọng đến đâu, liên hệ như thế
nào đến cuộc đời của các Tông Đồ mà họ dám sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ như
vậy?
Họ
chỉ cần nói khác đi, hoặc thực hiện chính sách “im lặng là vàng” là xong ngay.
Làm vậy ‘có chết thằng tây nào đâu’! Đằng này, họ đã cao rao rằng Đức Giêsu đã
phục sinh để rồi bị bỏ tù.
Rồi
vừa mới tọt ra khỏi cửa nhà giam, họ lại tiếp tục bô bô cái miệng: Đức Giêsu đã
sống lại, Đức Giêsu đã sống lại!
Đứng
trước thế lực quan quyền, những người có thể thủ tiêu họ dễ như trở bàn tay mà
họ cứ ‘ung dung như vại’, thẳng thừng thách thức: “Các ông nghĩ coi vâng lời Thiên Chúa và vâng lời người phàm, đằng nào
phải, đằng nào quấy?”
Với
thái độ khẳng khái và cứng rắn bảo vệ chân lý như thế, các Tông Đồ đã lần lượt
bị các chức sắc tôn giáo và chính quyền bỏ tù và giết chết.
Chúng
ta trở lại câu hỏi căn bản ở trên: sự thật Đức Giêsu phục sinh quan trọng thế
nào đối với cuộc đời của các Tông Đồ mà các ngài sẵn sàng chịu bao khổ hình và
cuối cùng bị mất mạng như thế?
Ít
nhất có hai lý do chính sau: Thứ nhất, các Tông Đồ đã cảm nghiệm được tình yêu,
lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho họ và cho nhân loại thông qua Đức Giêsu
Kitô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một của Người, để những ai tin vào Con Của Người thì không phải chết
nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Thứ hai, họ muốn thi hành sứ mạng của
Đức Giêsu phục sinh: “như Cha đã sai
Thầy, Thầy cũng sai anh em đi”.
Hai
lý do này liên hệ chặt chẻ với nhau. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa dành
cho mình, lòng họ dạt dào niềm vui sướng, hạnh phúc đã vỡ òa trong tâm hồn họ,
họ không thể im lặng được nữa.
Niềm
vui Phục Sinh tuôn trào trong tâm hồn các ngài và các ngài cảm thấy cần phải
rao truyền niềm vui đó cho mọi người, để muôn người cũng nếm cảm được niềm vui
Phục Sinh, cảm nghiệm được tình yêu thật lớn lao mà Thiên Chúa đã dành cho mỗi
người.
Tuy
nhiên, để nếm cảm được tình Chúa, để cảm nghiệm được lòng Chúa xót thương, mỗi
chúng ta phải làm gì? Thánh nữ Faustina, người đã được Chúa mặc khải về Lòng
Chúa Xót Thương vào đầu thế kỷ 20 vừa rồi, cho chúng ta một câu trả lời thật
đơn sơ.
Ngài
đã được chính Chúa hiện ra và mặc khải ba việc làm để có thể cảm nghiệm được lòng
thương xót Chúa: thỉnh cầu Lòng Chúa Xót Thương
– thực hành Lòng Chúa Xót Thương – tín thác vào Lòng Chúa Xót Thương.
Thỉnh cầu lòng Chúa xót thương nói lên niềm khao khát tình thương
của Chúa. Thánh Augustinô đã nói, chúng ta sẽ gặp được Chúa, cảm nhận được tình
thương của Người trong chính niềm khao khát đó. Lời kinh trong chuỗi Lòng Chúa
Thương Xót “Xin Chúa thương xót chúng con
và toàn thế giới” là phương thế tốt để cầu xin sự thương xót của Thiên
Chúa.
Cầu nguyện thôi chưa đủ, chúng ta phải thực hành lòng thương xót
Chúa qua những công việc nhiều lúc rất bình thường nhỏ bé hàng ngày như chào
hỏi nhau, giúp người quét rác, thăm người láng giềng, chia sẻ với người nghèo.
Vì chưng như thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục 2006 viết: “Chính
khi dấn thân phục vụ anh em, chúng ta cảm nghiệm Thiên Chúa một cách dễ dàng
hơn. Hay như trong thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, đức Bênêđictô đã nói: “Chỉ có việc phục vụ tha
nhân mở mắt cho tôi thấy điều Thiên Chúa làm cho tôi và Ngài đã yêu tôi như thế
nào” (số 18).
Việc thứ ba là Tín thác vào Lòng Chúa xót
thương. Cuộc sống này có lúc lành ít dữ nhiều, chúng ta dễ dàng chán nãn và
buông xuôi nếu không biết tín thác vào Chúa.
Chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ hành
động theo cách của Ngài và trong mọi hoàn cảnh Ngài sẽ dẫn lối đưa đường chúng
ta để chúng ta không rơi vào khổ đau và thất vọng. Làm được như thế, chúng ta
sẽ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa như thánh nữ Faustina đã từng cảm nghiệm:
“Lạy Chúa Giêsu, khi con được đắm
chìm vào Ngài, nếu so sánh với Ngài, mọi sự chỉ là không.
Đau khổ, chống đối, nhục nhã, thất bại, và hoài nghi trên đường con đi, tất cả
chỉ như viên đá lửa làm làm bùng lên ngọn lửa tình yêu con
dành cho Ngài mà thôi (Nhật ký số 57).
Cảm nghiệm được rằng Chúa xót
thương mỗi một chúng ta, cuộc sống của mỗi chúng ta sẽ biến đổi, sẽ được phục
sinh như các Tông Đồ xưa. Mọi nỗi sợ hãi trong cuộc sống sẽ tan biến, thay vào
đó là niềm vui Phục Sinh, là can đảm ra đi rao truyền Lời Chúa cho những người
chung quanh.
◊
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét